(Hình: Di tích trại quân La Mã, trong số nhiều trại quân được dựng lên trong cuộc vây hãm Madasa)
Nhiều người cảm thấy khá khó hiểu khi một nước Israel đơn độc lại dám đương đầu với gần như cả thế giới Arab thù địch, nó có cái gì đó phi lý. Chẳng phải dân Do Thái lâu nay chỉ được biết đến như những học giả lừng lẫy và những thương gia lọc lõi đó sao? Nhưng nếu họ biết đến những chiến công lừng lẫy trong quá khứ của người Do Thái thì câu chuyện đối đầu giữa họ và các quốc gia thù địch láng giềng ngày nay quả không có gì là quá khó hiểu…
1. Cuộc Chiến Do Thái
Cuộc Nổi loạn lớn của người Do Thái bắt đầu vào năm 66, bắt nguồn từ những căng thẳng về tôn giáo và sắc tộc giữa người Do Thái và Rome. Cuộc khủng hoảng leo thang do các cuộc biểu tình chống thuế và các cuộc tấn công vào công dân La Mã. Để đàn áp cuộc bạo loạn, hoàng đế Nero cử tướng Vespasianus làm Tổng chỉ huy, kéo cả hai quân đoàn V và X ở Syria đến vùng Do Thái. Sau đó con Vespasianus là Titus dẫn quân đoàn XV tại Ptolemais ở Ai Cập lên hội sư với thân phụ, với tổng quân số lên đến 6 vạn chiến binh. Cho tới năm 68, những chiến binh dũng mãnh của Rome đã chiếm được toàn bộ Judea và bờ biển phía Bắc của tỉnh này, trong khi đó những người Do Thái lại vướng vào những xung đột trong nội bộ của mình.
Kết thúc cuộc nội chiến trong năm 69, Năm Bốn Hoàng đế, chủ tướng Vespasianus đã chính thức được tuyên bố là Hoàng đế Rome bởi Viện Nguyên lão ngày 21 tháng 12. Tướng Titus được phụ vương bổ sung thêm quân đoàn XII và giao cho trọng trách khuất phục cuộc nổi loạn của người Do Thái. Titus bao vây thành Jerusalem với ba quân đoàn V, XII và XV ở mặt tây và quân đoàn X ở mặt đông hướng núi Olives. Để chế tạo các dụng cụ công thành hạng nặng, quân La Mã gần như chặt trụi cây cối trong bán kính 15km xung quanh Jerusalem. Nhằm nhiếp phục tinh thần của quân tử thủ, Titus còn ra lệnh đóng đinh thập giá những người Do Thái bị bắt sống khi cố trốn thoát khỏi vòng vây.
Tháng 7 năm 70, thành Jerusalem hoàn toàn thất thủ. Tương tự như khi Alexander chiếm được Persepolis, ban đầu vị chủ tướng Titus không có ý định thiêu hủy đô thành đối phương, nhưng ngọn lửa vẫn bùng lên từ hàng ngũ binh lính say men chiến thắng, khiến Đền Thờ và thành Jerusalem chỉ còn là một đống tro tàn. Titus đành truyền phá hủy những thứ còn sót lại, chỉ để lại một đoạn bức tường thành mặt tây để hậu thế hình dung được sự to lớn của thành phố đã bị ông khuất phục. Tuy đô thành đã bị bình địa, nhưng với người Do Thái, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc. Chiến đấu vì niềm tin của cha ông, niềm tin vào ‘Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Jacob’, họ quyết chiến đấu đến cùng, và đã để lại một hồi kết bi hùng cho cuộc chiến Do Thái tại pháo đài Masada.
2. Masada bi hùng
Masada là một pháo đài của người Do Thái nằm về phía tây nam của Biển Chết. Pháo đài này phần lớn là do vua Herod Đại đế xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 40 TCN đến 30 TCN trên một pháo đài nhỏ hơn đã có trước đó. Nằm trên một vùng đất cao có vách đá thẳng đứng, pháo đài chỉ có ba con đường mòn để đi lên. Về phía đông pháo đài nằm ở độ cao 400 mét so với Biển Chết, về phía tây dốc có độ cao là 100 mét. Chỉ nhờ vào vị trí và tầm nhìn bao quát, mảnh đất hình thoi rộng 300 m × 600 m này đã có thể được phòng thủ rất tốt. Vua Herod cho xây dựng hòn núi này thành một pháo đài: bao bọc lấy vùng đất cao này là một đường hầm công sự chắc chắn với đến gần 40 tháp. Bên trong bức tường thành là nhiều công trình xây dựng như nhà kho, chuồng ngựa, nhà ở và lâu đài, trong đó có Cung điện Bắc có nhiều bậc được xây bằng cách khoét vào vách núi. Ngoài ra, để có thể phòng thủ được lâu dài trong trường hợp bị vây hãm, trong pháo đài có nhiều kho dự trữ lương thực và 12 bể nước có thể chứa hằng chục ngàn mét khối nước mưa.
Câu chuyện vây hãm pháo đài Masada cũng như nhiều chuyện khác trong cuộc chiến này được chính Josephus Flavius thuật lại trong tác phẩm “Cuộc chiến Do Thái”. Theo đó, trong thời gian từ năm 70 đến 73, sau khi đền thờ tại Jerusalem bị phá hủy, tại Masada, 973 người của phong trào Zelot, nghĩa là Nhiệt Thành, đã chống cự lại lực lượng hùng mạnh 15.000 lính Rome dưới sự chỉ huy của Flavius Silva. Để tiếp tế cho quân đội bao vây, mỗi ngày người La Mã phải dùng gần 500 con lừa để chở nước từ ốc đảo gần đó nhất là Ein Gedi, cách Masada 30 km.
Đầu tiên, tướng Flavius Silva cho xây một bức tường dài hơn 4 km bao bọc chung quanh ngọn núi để chia cắt những người bị vây hãm với bên ngoài và cho dựng tổng cộng đến 8 doanh trại quân sự mà ngày nay di tích vẫn còn trông thấy được. Tiếp theo đó, quân Rome đắp một bệ đất cao đến tận tường thành về phía tây của pháo đài, là nơi thấp hơn. Qua bệ đất này họ đưa tháp công thành đến gần pháo đài. Tháp công thành đầu tiên đã bị quân thủ thành dùng hỏa công đốt trụi, nhưng khi quân Rome bọc sắt cho tháp công thành thứ hai, Masada biết số mệnh của mình đã bị định đoạt.

Theo tường thuật của Josephus Flavius, trong hoàn cảnh tuyệt vọng, những người bị vây hãm tại Masada đã quyết định thà chết như những người tự do chứ không chịu để người La Mã bắt giữ. Nhưng người Do Thái vốn nổi tiếng vì sự chi li trong việc phân định và tuân giữ lề luật, họ suy tính dựa vào Torah rằng giữa hai tội tự sát và sát nhân, thì tội sát nhân nhẹ hơn. Thế là hơn 900 người còn lại trong pháo đài Masada đã tự phân ra làm hai nửa rồi bắt thăm, bên thua phải giết bên còn lại, và cứ tiếp tục như vậy cho đến người cuối cùng.
✥ Bàn Về Mười Tai Ương Giáng Xuống Ai Cập Trong Kinh Thánh
✥ Tropaion – hình nhân chiến thắng của Hy La cổ đại
✥ Trận Shiloh, chiến trường đẫm máu
✥ Pháo đài Sumter, nơi khởi đầu của nội chiến Mỹ
Hẳn nhiên, đây là một việc vượt quá sức chịu đựng của hầu hết người bình thường nhưng quả thực quân Do Thái thủ thành đã quyết là làm tới cùng. Hơn 900 người Do Thái đã chết theo cách thức hi hữu đó. Khi quân lính Rome xông vào thành họ chỉ còn tìm thấy hai người phụ nữ và năm trẻ em còn sống. Nhờ vào tường thuật này của Josephus Flavius mà Masada đã trở thành biểu tượng cho lòng mong muốn tự do bất diệt của người Do Thái. Một số sử gia lại cho rằng câu chuyện Masada thực ra là câu chuyện của chính Josephus Flavius. Họ cho rằng chính trong cuộc tử thủ thành Jotapata tại Galilee, vị chỉ huy Josephus đã thuyết phục binh sĩ dưới quyền mình thực hiện cách thức ‘được giết’ bằng cách bốc thăm và ông đã khôn khéo xoay sở để trở thành người sống sót cuối cùng, và sau đó Josephus, ra đầu hàng người Rome. Sau cuộc chiến, Titus đưa Josephus Flavius về Rome và ban cho ông một khoản trợ cấp của hoàng đế cùng với quyền công dân. Josephus Flavius mất năm 94 tại Rome.
Dân tộc Do Thái tuy ‘binh bại như sơn đảo’ nhưng sau đó vẫn cố khởi nghĩa thêm hai lần nữa vào các năm 117 và 135, tiếc thay đều thất bại thảm hại, và bị phân tán ‘trên khắp mặt địa cầu’.
3. Không bao giờ thất thủ nữa
Sau khi thất thủ, pháo đài Masada bị bỏ hoang, ngoại trừ thời gian một số đan sĩ Byzantine đã tạm thời cư ngụ tại đấy. Pháo đài bị quên lãng mãi cho đến năm 1838 mới được tái khám phá và sau đấy được khai quật hoàn chỉnh trong thập niên 1960 dưới sự chỉ huy của Yigael Yadin. Mặc dù Masada đã bị quên lãng trong một thời gian dài, và ngoài ra, độ tin cậy từ những tường thuật của Flavius Josephus vẫn còn trong tranh cãi, nhưng truyền thuyết này đã có nhiều tác động lớn. Những sự việc xảy ra chung quanh pháo đài Masada có ảnh hưởng lớn đến sự tự nhận thức của quân đội Israel. Cuộc diễn tập cuối cùng trong khóa đào tạo tân binh chấm dứt sau 2 ngày trên pháo đài. Trong lời thề của chiến sĩ, pháo đài đã trở thành biểu tượng cho ý chí tự khẳng định của người Israel: “Masada không bao giờ thất thủ nữa.”
Lạc Vũ Thái Bình
Huế, 10-2022
Tài liệu tham khảo
- 12 hoàng đế La Mã – Caius Suetonius Tranquillus
- Dẫn nhập Thánh Kinh – Phạm Hữu Quang
- Bách Khoa Toàn Thư về Chiến Tranh – Robin Cross
- Lịch sử thế giới, Chân dung nhân loại theo dòng sự kiện – Viện Smithsonian