1. Bản sao Kiều Đại
NĂM 1943, theo học sinh trường Bưởi tản cư vào Thanh hóa, tôi thường có nhịp tới viếng đền Vua Lê ở thôn Kiều đại cạnh phía nam tỉnh thành. Đền tuy rộng lớn, có vẻ cổ kính, có những tượng cổ lớn như hạc cỡi rùa và phổng dâng hương, nhưng hình như đền không có bi kí hoặc bút tích gì khác đáng kể. Ấy vì ngôi đền nầy nguyên dựng ở Thăng long, được dời vào đây khoảng đầu đời Gia long. Tuy sự ấy đã làm tôi hơi thất vọng, nhưng tôi vẫn làm quen với “cụ từ” giữ đền nầy. Trải qua nhiều giờ trò chuyện khẩn thiết dò la, tôi vẫn mong tìm thấy sách tàn giấy cũ gì tự đời Lê sót lại. Một hôm, sau khi phàn nàn với cụ sự ngày hôm trước tôi đã vất vả cưỡi xe đạp viếng Lam sơn mà không thấy giấy mực gì xưa, cụ từ đứng dậy vào nhà trong. Chốc lát cụ mang ra một quyển sách nhỏ, dáng hình không cũ mấy. Cụ trao sách cho tôi vừa bảo đó là một bản sao sách cũ chép sự tích các vua Lê.
Tôi giở sách ra đọc, thấy ở trang đầu có ghi rõ : Bảo đại lục niên tuế thứ Tân vị bát nguyệt thập tam nhật thừa sao, nghĩa là vâng lời sao lại ngày 13 tháng 8 năm Bảo đại thứ 6, Tân vị (1931). Nhưng không cho biết vâng lời ai. Sau một bài ca tứ tự đề Lưỡng quốc lập đồng trụ tự thệ ca nghĩa là bài ca hai nước (Việt và Minh) lập cột đồng và thề cùng nhau, và sau hai bài thơ chữ Hán có tính cách sấm kí, những trang sau chép chuyện các vua Lê gần như trong sử, nhưng với vài tính cách gia phổ hơn, ví như chép tên mộ địa, ngày kị.
Khi tôi đã bắt đầu thất vọng, thì vào khoảng tờ hai mươi tám, tôi thấy chép một bài văn thề của Lê Lợi, rồi liền sau, lại nối hai bài thề nữa cũng của Lê Lợi nhưng lại bằng chữ nôm. Sau cuối có một bài ngắn nửa chữ nửa nôm, cũng ghi vài câu thề của Lê Lợi. Tôi sửng sốt vô cùng băn khoăn không dứt. Rồi tôi định thần lại đọc kĩ các lời thề ấy. Tôi thấy nó có nhiều đặc điểm có lẽ xác thực, cho nên tôi bèn sao lại rất kĩ càng.
Sau đây, tôi chỉ xin trình các lời thề của Lê Lợi, nhất là các bài nôm. Nếu quả rằng các bài nôm nầy có tự đời Lê Lợi, và không bị sao lại thất chân, thì đây là hiện vật độc nhất của Việt ngữ trước nay già 550 năm. Theo thói xưa, văn không có chấm câu. Sau đây, tôi tự phân tích nghĩa mà chia lời, cách chấm câu của tôi chưa chắc đã khỏi có nơi không đúng.
2. Hai thệ văn Nôm
Bài A : Lời gọi công thần cùng thề nhớ ơn Lê Lai1
Lê tằng tôn2 đại… Thiên hành hóa…3 Thái tổ Cao hoàng đế chỉ huy4 dạy rằng :
Kẻ làm công thần cùng Trẫm bấy nhiêu ! Chúng bay đã chịu khó nhọc mà được nước ta. Chúng bay đã chịu khó công cùng Trẫm đói khát mà lập nên thiên hạ, đến có ngày rày mà được phú quí. Chúng bay cũng phải nhớ công Lê Lai5 hay hết lòng vì Trẫm mà đổi áo cho Trẫm, chẳng có tiếc mình cùng Trẫm, chịu chết thay Trẫm.
Công ấy chẳng cả thay ! Trẫm đã táng Lê Lai ở trong đền Lam, để mai ngày cho con cháu Lê Lai ở hết lòng cùng con cháu Trẫm. Thế vậy cho kẻo6 lòng thương nó.
Chúng bay truyền bảo con cháu chúng bay7, chúng đại thần cùng con cháu chúng bay: vì vậy công Lê Lai ấy chẳng cả thay !
Cho đến con cháu Trẫm, mà quên ơn nhà Lê Lai thì cho8 trong thảo điện9 nầy nên nước, trong đền nầy nên rừng.
Nhược10 chúng bay nhớ bằng11 lời Trẫm, thì nguyền cho con cháu Trẫm cùng con cháu chúng bay phú quí.
Nhược dù ai hay nhớ bằng lời Trẫm, ấy thì thấy kiếm nầy xuống nước thì cho nên rồng. Ai lỗi lời nguyền thì đòng12 ấy nên đao.
Cho thế chúng bay cùng nhớ bằng lời chư tướng thề.
Ti lễ giám sự đồng tri lễ, thần, Nguyễn Đôn phụng sao tống công thần tằng tôn các chấp nhất đạo13.
Bài B : Lời thề cùng tướng sĩ quân nhân (nôm)
…Thái tổ Cao hoàng đế. Trẫm tính Lê, húy Lợi, đại Thiên hành hóa, phủ trị bang gia14. Vì vậy, Trẫm nguyền chư tướng, hỏa thủ15, Thiết đột quân nhân16 đẳng :
Hễ kẻ làm công thần ở cùng Trẫm mà được thiên hạ ! Chưng17 sau thiên hạ thái bình, thì Trẫm nhớ đến công thần chư tướng hết lòng sức, danh truyền để muôn đời, vĩnh thùy trúc bạch18 ; cho chưng sau, con cháu Trẫm cùng con cháu chư tướng đều được hiển vinh, hưởng chưng phúc lộc.
Dù bể kia hay cạn, núi nọ hay bằng, thì công ấy, Trẫm chẳng khá quên chư tướng. Dù Trẫm chẳng bằng19 lời nguyền ấy vậy, thì truyền cho con cháu trẫm như lời ấy.
Trẫm nguyền bằng : Thảo điện nên rừng, điện này nên nước, núi này nên băng20, ấn nầy nên đồng, kiếm này nên sắt.
Bằng Trẫm được thiên hạ nhớ công chư tướng, nguyền hiển hách21. Vả lại truyền cho con cháu nhà Trẫm muôn đời bằng như lời nguyền ấy, thì để cho quốc gia trường trị, yên như bàn thạch22 ; Hoàng hà như đái, Thái sơn như lệ23 ; con cháu nhà Trẫm muôn đời quang đăng bảo điện24.
Vì vậy Trẫm phải hết lời cùng chư tướng : hễ đã đi làm công thần ở cùng Trẫm, đồng tâm hiệp lực, chớ ngại khó khôn25. Hòa26 làm việc thiên hạ chẳng những thế ấy ; Trẫm lại cậy27 lời nầy : Như trong binh pháp rằng “nhân nghĩa chi binh, hòa mục vi thượng”28. Nếu có binh nhân nghĩa thì có hòa mục mới khá được hiệu lịnh cho tin. Chữ rằng “Pháp giả thiên hạ công cọng”29. Dù ai chẳng phải, đà có phép trời luật nước.
Ai nấy thì cho có hòa mục, cho tin hiệu lịnh, cho nghiêm sửa phép30 ; hòa làm việc thiên hạ để công danh muôn đời, thực lộc thiên chung31.
Phụng sao
*
Hai văn kiện trên đều chép lời bằng nôm Lê Lợi thề cùng các người phụ tá ; bài trước nguyền nhớ công Lê Lai, bài sau nguyền nhớ công các tướng sĩ và công thần. Như tôi đã nói, tôi chỉ được thấy bản sao rất mới (1931). Vậy câu hỏi mà tất nhiên ta phải nêu ra là những lời ấy thật có hay đã có kẻ bịa ra ; nếu thật có, thì nó có bị sao chép lầm hay là chữa nhiều không ? Hồi tôi ở Thanh Hóa, tôi đã hỏi “cụ từ” gốc tích những bài này ; Cụ đã trả lời là sao lại của một họ công thần đời Lê mà con cháu ở huyện Nông Cống (tôi không chép được tên làng). Cụ lại nói có bài khắc ở đồng hay sắt. Sau hồi ấy, biến loạn giồn giập, tôi bị bận nhiều việc khác, cho nên đã không tra cứu được thêm. Giá như có kẻ điều tra lại, may chi tìm được gốc tích rõ ràng, và những nghi vấn đặt trên kia có lẽ sẽ được trả lời dứt khoát. Khốn nỗi, binh hỏa liên miên trong suốt hai mươi năm nay, vật đổi sao dời, cố lão điêu linh. Dù có điều tra nữa cũng chưa chắc đã tìm ra manh mối. Huống chi ở đất khách, may còn giữ được mấy mảnh tàn biên, tôi chẳng có tham vọng gì hơn là dựa vào nội dung và hình thức các bài kia, so sánh với một vài văn kiện khác hoặc sử sách đáng tin mà xét đoán.
*


3. XÉT BÀI A
Trước hết, đọc hai bài kia, chúng ta liền thấy rằng năm chữ Thái tổ Cao Hoàng đế quyết không thể có trong lời của Lê Lợi, vì miếu hiệu Thái Tổ, và tôn hiệu Cao hoàng đế đều đặt ra sau khi Lê Lợi mất, cũng như miếu hiệu và tôn hiệu của tất cả các vua Trung quốc và ta đời xưa. Sách Toàn thư chép rằng : “ngày 22 tháng 11 năm Quí Sửu 1433, đưa về táng ở Lam sơn tại Vĩnh lăng ; đặt miếu hiệu Thái tổ, dâng tôn hiệu : Thống thiên Khải vận Thánh đức Thần công Duệ văn Anh vũ Khoan minh Dũng trí Hoằng nghĩa Chí minh Đại hiến Cao Hoàng đế” (quyển 10, tờ 76). Vậy đó là lời của người sao lại, hay là kể chuyện lại. Nhất là trong bài A, câu đầu rõ ràng là lời kẻ sao thêm vào để làm lời mào, ở cuối lại có lời phụ chú nói rõ rằng : Thần, Nguyễn Đôn phụng sao… Vậy câu mào có lẽ là của Nguyễn Đôn.
Vả lại, tên Nguyễn Đôn nầy, có trong quốc sử, và chắc coi về việc lễ. Sách Toàn thư chép rằng : “ngày 14 tháng 2 năm Bính thìn 1496, trời không mưa, vua (Lê Thánh Tông năm Hồng đức thứ 27) cầu đảo, tự viết tập thơ mình soạn (Xuân vân thi tập) thành bốn tờ, sai NGUYỄN ĐÔN dán lên tường miếu thần (Hoằng hữu gần Lam sơn)”. Các vua nối ngôi Thái tổ đều có nghĩ đến việc biệt đãi con cháu công thần. Nhưng hình như Thái Tông và Nhân Tông không thi thố gì đáng kể. Chỉ có nhịp đại hạn trong năm Kỉ tị 1449. Nhân Tông sám hối và trong tờ chiếu tỉnh cung (xét lỗi mình), có lời rằng : “Hoặc là con cháu các người có công lao cũ chưa được lục dụng để trả khó nhọc, mà đến thế nầy” (Toàn thư quyển 11, tờ 79). Trái lại đời Lê Thánh tông, có nhiều sắc chỉ đền công các công thần : cấp thế điền (ruộng được hưởng đời đời), ban quốc tính cho các con (Toàn thư quyển 12 tờ 5, 6, năm Canh thìn 1460) ; sung con cháu công thần đang tại ngũ vào vệ Cẩm y hoặc thả cho về (Toàn thư quyển 13 tờ 43, năm Giáp thìn 1484) ; ban hàm tán quan (chức quan không làm việc thật) cho con cháu công thần (Toàn thư quyển 13 tờ 68, năm Nhâm tí 1492). Trong Thông sử, thấy ở các chuyện công thần giúp Thái tổ, đều chép được gia tặng năm Hồng Đức thứ 15 (1484).
Chính Lê thánh tông đã giải oan cho Nguyễn Trãi, ban chức huyện cho con sống sót của Nguyễn Trãi là Anh Vũ (Toàn thư quyển 12 tờ 15 năm Giáp thân 1464) và sai tìm di cảo thơ văn của Trãi (Toàn thư quyển 12 tờ 30, năm Đinh Hợi 1467).
Xem vậy thì ta có thể tin rằng nếu có những lời Lê Lợi thề với công thần, những lời ấy được nhắc lại và sao lại trong đời Lê thánh Tông và được giao cho các tằng tôn công thần, tức là nhắc con mình (tằng tôn Lê Lợi) phải nhớ lời thề từ bốn thế hệ trước để lại.
Bây giờ ta hãy xét đến nội dung. Chính yếu bài A là chuyện Lê Lai. Trong chú thích trên tôi đã dẫn Sách Lam sơn thật lục theo bản in đời Vĩnh trị năm 1676. Nhưng trong Toàn thư lại không hề chép chuyện Lê Lai ; trái lại ở tờ 27 quyển 10 có chép vào khoảng tháng giêng năm Đinh mùi 1427, trong khi đóng doanh ở bến Bồ đề, vây Vương Thông trong thành Đông quan, Lê Lợi “giết tư mã Lê Lai, tịch gia sản, vì Lai cậy có chiến công nói lời ngạo mạn”. Lê Lai nầy là ai ? chắc cũng là một đại công thần. Trùng tên chăng ? hay là kẻ khắc chữ lầm tên ? Dẫu sao, sự không thấy chuyện Lê Lai trong chính sử triều Lê có thể gieo ít nhiều mối nghi ngờ trong trí nếu không chứng gì khác xác nhận chuyện Lê Lai. Nếu bản in 1676 là đúng nguyên tác thì ta phải tin Lam sơn thật lục, vì theo Toàn thư thì“ngày mồng sáu tháng chạp năm Tân hợi 1431, vua (Lê Lợi) sai làm Lam sơn thật lục. Vua tự viết tựa, kí hiệu Lam sơn động chủ”. Bài tựa ấy còn thấy trong bản viết xưa để ở Nội các tại Huế (nay ở thư viện viện Khảo cổ ở Sài gòn) đề đúng năm Thuận thiên thứ 4 (1431) nhưng tháng là trọng đông nghĩa là tháng mười một, và xưng đúng là “Lam sơn động chủ viết tựa”. Những chứng ấy đáng lẽ khiến ta hoàn toàn tin vào bản Nội các ấy. Nhưng khốn nỗi, bản ấy đúng y như bản in, chỉ khác là bài tựa của Lê Lợi thay bài tựa của Duệ Quận công Hồ Sĩ Dương là người mà Tây vương Trịnh Tạc sai in lại bản Thật lục. Mà bản in ấy, theo Lê quí Đôn, đã bị “nho thần phụng mệnh đính chính, chỉ cứ vào sở kiến lấy ý mà san cải, thêm bớt làm sai sự thật, không đúng là sách trọn vẹn nữa” (Nghệ văn chí trong Lê triều thông sử). Riêng về chuyện Lê Lai, có lẽ trong nguyên bản có chép chuyện Lê quí Đôn trong Lê triều thông sử ở chuyện Lê thái Tổ, có chép chuyện ấy, tuy có hơi khác với Thật lục. Lời Thông sử rằng : “…Binh mã nguy khốn lắm. Vua hỏi chư tướng có ai hay bắt chước chuyện Kỉ Tín xưa. Người thôn Dựng tú Lê Lai khảng khái vâng mệnh, tự nguyện tráo đổi áo, đem quân ra khỏi chỗ ẩn, hô bảo mình là Lê vương (chúa ?) Lam sơn. Tướng Minh mừng lắm, họp quân vây lấy. Lai kiệt lực, bị bắt đem về Đông quan, và bị giết”.
Mà thật vậy, đời Lê không ai nghi ngờ gì về việc Lê Lai, vì Lê Lai chính thức là một vị công thần và một vị linh thần rất được các đời vua trọng vọng. Nay còn hai kí tải khác chứng minh sự ấy. Phạm phi Kiến (sinh năm 1565, đậu tiến sĩ năm 1623) chép chuyện Lê Lai trong sách Thiên nam Trung nghĩa thật lục với nhiều chi tiết đáng tin. Lời rằng :
“Lê Lai ở cùng làng với Thái tổ (Lê Lợi), cũng cùng dấy binh, giữ chức đại tư đồ. Bấy giờ, vua (ban đầu xưng Bình định vương nguyên chủ) ở Lam sơn, quân còn ít. Người Minh lùng bắt luôn luôn. Vua tự nghĩ rằng thế lẻ loi không địch nổi, muốn trốn náu tăm tích. Hội tướng tá, vua hỏi rằng : “Ai mà hay lấy thân thay ta, cho ta nhờ đó náu dấu, ngầm họp binh mã để lo nổi quân về sau, thì sẽ được vẻ vang với nước. Con cháu người ấy nối đời được cất dùng.”
“Lai xin gánh lấy việc ấy. Vua bèn vái Trời khấn rằng : “Lê Lai lấy thân thay chúa. Ngày sau nếu quên công y, thì thề chịu cung điện thành núi rừng, bảo ấn thành đồng thiếc, thần kiếm thành đao.”
“Lai bèn đem binh đến thành Tây (Tây đô), hô lớn khiêu chiến, tự xưng là Bình định vương. Người Minh vây bắt, gia cực hình. Sau vua phong hai con là Bá và Viện làm trung lang tướng. Khi vua lên ngôi, tặng Lai hiệu Thái thượng quốc công nguyên huân công thần ; lại ban thụy Trung dũng đại vương ; đưa tùng tự ở Thái miếu. Đến đời Gia tông (nguyên chú : Dương hòa năm đầu 1635) cấp một trăm mẫu ruộng tế”. (mục Lê triều trung nghĩa chư thần).
Ta nhận thấy rằng Phi Kiến hẳn đã dùng tài liệu khác ngoài Lam sơn thật lục, như thần phổ chẳng hạn. Nhưng, về tên các con và các mĩ tự trong hiệu thần, thì ta sẽ thấy rằng Lê Quí Đôn sẽ chép khác. Vả Phi Kiến cũng không kể đến chuyện tráo đổi áo.
Lê Quí Đôn tuy sống sau Phạm Phi Kiến chừng 150 năm, nhưng viết chuyện Lê Lai, trong Đại Việt thông sử (quyển 31), một cách rất rõ ràng hơn và rất đáng tin hơn. Chắc chắn ông đã giao thiệp với dòng dõi Lê Lai bấy giờ còn phồn thịnh ở huyện Hoằng hóa, xứ Thanh hóa, và ông đã được đọc gia phổ và tài liệu khác nữa. Sau khi ta đọc Thông sử, không những ta phải tin rằng chuyện Lê Lai hoàn toàn có thật, mà ta cũng phải nhận rằng lời thề A chắc cũng xác thật. Sau đây tôi cũng sẽ dịch nguyên văn của Quí Đôn. Về đoạn con cháu, thì sẽ ước lược, nhưng cũng sẽ giữ phần chính trong đoạn ấy để tỏ rằng con cháu Lê Lai đến đời Lê Mạt luôn luôn phát đạt, cho nên chắc đã giữ được nhiều tài liệu của tổ tiên cách đó 350 năm. Quí Đôn viết :
“Lê Lai người huyện Lương giang, sách Đức giang, thôn Dựng tú. Cha tên Kiều, nối đời làm phụ đạo ; sinh hai trai : cả tên Lạn, thứ tên Lai. Lạn theo Thái tổ khởi nghĩa, có nhiều công lao. Trong chiến dịch Ất tị (1425), mất vì việc vua ở Khả lưu quan. Sau được tặng Thái phó Hiệp trung hầu ; rồi gia tặng Hiệp quận công.
“LAI, tính cương trực, dung mạo khác thường ; chí khí cao rạng. Theo đòi thị vệ, có nhiều công lao. Năm Bính thân (1416), vua cùng các tướng thân 18 người, nối tên kết thề, hẹn cùng vui buồn ; Lai có dự (câu nầy rất quan hệ về sau). Được trao chức Tổng quản phủ đô tổng quan Quan nội hầu.
“Năm Mậu tuất (1418), vua mới đầu dựng cờ nghĩa, tướng non, quân ít, bị tướng Minh đánh gấp ở Mường Một ; thoát được, trụ ở cõi xứ Trịnh cao. Trên đường không tăm người, không bóng khói. Tướng Minh chia quân đóng chặn các nơi hiểm yếu, thế rất bách. Vua hỏi các tướng : “Ai chịu tráo đổi áo thay ta đem quân ra đánh quân giặc, xưng tên hiệu ta như Kỉ Tín đời Hán, cho ta có thể náu dấu nghỉ binh, góp nhặt tướng sĩ để lo nổi dấy về sau ?”
“Các tướng đều không dám trả lời. Chỉ mình Lai mạnh bạo nói : “Tôi xin đi. Ngày sau, vua được thiên hạ thì hãy trả công cho tôi ; vạn đời con cháu sẽ được chịu ơn nước ; đó là nguyện tôi”. Vua thương xót. Lai nói : “Nay quẩn bách như vầy, ngồi giữ đất nguy để vua tôi cùng chết, tôi sợ rằng cũng là vô ích. Nếu làm kế ấy, hoặc có thể nới ra chút ít. Kẻ bầy tôi trung vì nước lại có tiếc gì.”
“Vua vái Trời khấn rằng : “Lê Lai tráo đổi áo có công. Nếu ngày sau Trẫm và con cháu, cùng con cháu các tướng tá công thần không đền công ấy, thì thề rằng : Thảo điện thành rừng núi, bảo ấn thành đồng, thần kiếm thành đao (nguyên thừa chữ binh)”. Lai bèn đem năm trăm quân, hai voi, thẳng tới lũy giặc khiêu chiến. Người Bắc đem hết quân ra đánh. Lai cưỡi phi mã xông vào trận, hô rằng : Chúa Lam sơn là ta đây ! Chém và làm bị thương giặc nhiều vô số. Sức kiệt, bèn bị giặc bắt. Giặc gia cực hình. Giặc bèn lui về thành Tây đô, phòng bị khá nới.
“Vua được thong thả nghỉ ngơi, súc giưỡng nhuệ khí. Đánh trăm trận được cả trăm. Nhờ đó được thiên hạ. Vua cảm lòng trung của Lai ; trước đó đã sai lén tìm di hài về táng ở Lam sơn. Năm đầu đời Thuận thiên (1428) phong làm công thần đệ nhất, tặng hiệu Suy trung Đông đức Hiệp mưu Bảo chính Lũng nhai công thần, thiếu úy, cho thụy Toàn nghĩa. Năm Thuận thiên thứ hai (1429), tháng chạp, vua sai Nguyễn Trãi chép hai đạo văn ước thệ và lời thề chung về Lai cất vào hòm vàng (câu nầy rất quan hệ về sau). Lại gia phong thái úy. Năm đầu đời Thái hòa (1443), tặng Bình chương quân quốc trọng sự, cho Kim ngư đại kim phù và tước Huyện thượng hầu. Khoảng đầu đời Hồng đức (1470), tặng tước Diên phúc hầu. Năm thứ 15 (1484), truy tặng Phúc quốc công. Sau gia phong Trung túc vương.
“Lai sinh ba trai : cả tên Lư, thứ tên Lộ, cuối tên Lâm, đều có tài nghệ. Năm Ất tị (1425), vây thành Nghệ an, Lư cùng các tướng chia nhau đánh các xứ, mất tại trận. Được tặng thái úy (1428). Đời Hồng đức, tặng Kiến tiết hầu (1484). Sau gia tặng Kiến quận công.
“Lộ, thì trong chiến dịch ở sách Ba lẫm, ải Kình lọng, đã phát phục binh phá quân Trần trí, được thăng Tả trung quân tổng đốc chư quân sự. Năm Giáp thìn (1424), theo vua đánh châu Trà lân, dự trận Bồ liệp, phá quân Phương Chính và Sư Hữu. Được thăng Thái bảo. Tháng mười năm ấy, bị trúng tên lạc mà chết. Được tặng thái úy (1428). Đời Hồng đức, tặng Chiêu công hầu. Sau gia tặng Chiêu quận công.
“Lâm theo vua dẹp giặc Ngô có công, khi thưởng các người thuộc Thiết đột hỏa thủ (bản sao cũng lầm ra thứ thủ như trong bài B) có công ở Lũng nhai, được trao Trung lãng đại phu Câu lưu vệ tướng quân, tước thượng trí tự, hiệu Suy trung Đồng đức Hiệp mưu Bảo chính công thần. Năm Thuận thiên thứ ba (1430) làm tiên phong đi đánh Ai lao, phá được quân giặc, đuổi đến động Hông di, trúng mũi nhọn tẩm thuốc độc mà chết. Tặng thiếu úy. Đầu năm Quang thuận (1460), vì con là Nậm có công truất Nghi dân lập Thánh tông nên Lâm được tặng đô đốc. Rồi gia tặng Trung lễ hầu (1484) rồi thái úy Trung quốc công, ban thụy Uy vũ. Lộ sinh ba trai, Tích, Tung, Dũng, đều có công phong hầu, Tích cũng sinh ba trai : Liệp, Ngạp, Quị : đều nối tước”.
Lâm sinh Nậm, là một đại thần đời Lê Thánh Tông. Lê Quí Đôn chép chuyện Nậm rất kĩ. Sau đây tôi sẽ lược dịch :
Lê Nậm là cháu Lê Lai, rất thông minh. Văn võ kiêm toàn. Khi trẻ, nhà nghèo, dời tới ở xã Duy tinh huyện Thuần Hữu (nay huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh hóa). Năm Thiệu bình thứ 6 (1439) được ấm phong chức cận thị chính chưởng, thăng chức thiểm tri nội mật viện sự (1445). Theo Lê Thụ đi đánh Chiêm thành. Thăng làm an vũ phó sứ ở Tây đạo (1448), rồi thăng làm tuyên ủy đại sứ trấn An bang (Quảng yên). Tháng 10 năm Kỉ mão (1459). Nghi Dân giết vua Nhân tông, cướp ngôi. Bấy giờ Nậm làm Xa kị vệ đồng tổng tri chư quân sự vụ họp cùng các đại thần bỏ Nghi dân và lập Thánh Tông. Từ đó Nậm được cực kì trọng dụng về cả văn lẫn võ. Thăng Đình thượng hầu (1460), cho quốc tính, dự tham triều chính. Theo vua đánh Chiêm thành (1470), rồi lại trở lại làm phó tướng quân dẹp Chiêm thành lần thứ hai (147I). Năm Hồng đức thứ 10 (1479) cầm quân đi đánh Bồn man, đuổi chúa Sầm Công đến sông Tràng sa giáp biên giới Diến điện. Được phong Tinh quốc công, rồi mất (1485).
Nậm sinh mười lăm trai. Trai thứ tư tên Khủng tử trận ở Chiêm thành, tặng thái bảo Thuần quận công. Đời Cảnh hưng, dòng họ hơn trăm đinh còn ở thôn Ngọc thuộc huyện Hoằng hóa (Thanh hóa). Con thứ hai là Chí cũng có công trong chiến dịch Chiêm thành, rất được Thánh tông yêu. Làm quan đến thái bảo Quình quận công, tặng Hoài quốc công. Chí sinh năm trai. Dòng họ có nhiều người làm đến thái bảo tước quận công, như Công Thái, Công Từ giúp Trang Tông và Trịnh Kiểm, Công Trừng, Công Giới giúp Thần tông và Trịnh Tráng, đều được phong mĩ hiệu công thần.
Cuối chuyện Lê Lai và Lê Nậm, Quí Đôn chép : “Đời Hi tông, Chính hòa năm thứ 13 (1692), sai quan lưu thủ Nguyễn Thì Vân, theo nền cũ ở thôn nhà, dựng từ đường thờ Trung túc vương Lê Lai, cấp ruộng tế để nêu công huân cũ. Nay, đinh trong họ rất nhiều… Chế mệnh ban cho Nậm tước Đình thượng hầu hiện còn.”
Sau khi đọc Thông sử, ta thấy hiển nhiên rằng chuyện Lê Lai hi sinh để Lê Lợi có thể trốn tránh trong cơn quẩn bách là chuyện thật, mặc dầu Toàn thư, theo bản ngày nay còn đã bỏ sót. Vả về đời Lê Lợi, bản Toàn thư hiện còn chép chuyện năm thì nhiều, năm thì ít, khiến ta có thể nghĩ rằng hoặc vì tài liệu đã mất nhiều trước đời Lê Thánh tông, hoặc sử thần cẩu thả, hoặc bản đời sau khắc lại bớt xén nhiều.
Ta cũng phải nhận rằng Lê Lợi đã từng thề với Lê Lai rằng đời đời phải trả công Lê Lai. Những câu thề chép trong Thật lục và Thông sử, phần lớn rõ ràng là lời dịch những câu nôm trong bài A. Vậy ta cũng phải tin rằng, sau khi đuổi sạch ngoại xâm và lên ngôi vua, Lê Lợi đã nhắc lại lời thề xưa và bảo các công thần cùng thề sẽ không quên ơn Lê Lai và sẽ nhủ bảo con cháu điều ấy.
Được nhận là xác thật, bài thề A khẳng định thêm một vài sự kiện lịch sử. Câu “Lê Lai hay hết lòng vì Trẫm mà đổi áo cho Trẫm”, xác nhận chuyện đổi áo. Câu “Trẫm đã táng Lê Lai ở trong đền Lam” chứng thực sự Lê Lợi sai lén tìm di hài Lai về táng ở Lam sơn mà ta thấy chép trong Thông sử.
Ta chớ lấy làm lạ sự lời thề kia đã chép bằng nôm, khác với những lời thề thấy trong các sử sách đã kê trên. Tuy lời khác nhau, nhưng ý phù hợp. Thề với nhau đây là một việc gần như riêng giữa những kẻ cùng chung gian khổ, sống với xác thịt nhiều hơn với lý trí. Họ lại là phần lớn là kẻ vũ biền ít học, ít quen chữ nghĩa văn hoa. Cho nên lời thề với nhau là lời nói thường ngày, tự trong tâm mà ra, chứ không phải do từ hàn trau chuốt. Quả vậy, ta hãy đọc lại hai bài thề trên, ta sẽ thấy rằng giọng văn cục mịch, ý tứ rườm rà, không phân minh gãy gọn ; nghe ra y như lời nói chuyện hằng ngày giữa đám thường dân, chứ không có tính cách văn chương một tí nào. Chính vì tính cách nôm na quê kịch ấy mà ta lại càng nên tin rằng bài thề A không phải bởi người đời sau bịa đặt ra ; vì nếu có kẻ bịa đặt thì ắt đã đem lời đẹp để tô điểm câu chuyện.
Còn như sử sách, thì vì tính cách công, cho nên dẫu nguyên văn sử liệu viết bằng nôm, sử gia cũng dịch ra chữ Hán để ra chiều nghiêm nghị. Người ta ngày nay thường lặp lại một sự suy đoán sai, là chỉ có đời Tây sơn mới dùng chữ nôm một cách chính thức. Thật ra, với những di văn còn thấy, đời Lê rất thường dùng văn nôm trong thư văn hoặc công văn. Tôi sẽ có dịp đem nhiều chứng về điều đó. Hẵng đưa ra một chuyện. Năm Hồng đức thứ hai, Tân mão (147I), khi Lê Thánh tông thân chinh đánh Chiêm thành, đến cõi địch, “vua thân chế chiến sách bình Chiêm… Sợ tướng sĩ chưa hiểu, sai Nguyễn Thế Mĩ dịch ra quốc ngữ để ban ra mà dạy” (Toàn thư quyển 12, tờ 6I). Đó là vì trường hợp thiết thực đối với quân nhân tướng sĩ mà dùng quốc ngữ.
Kết luận đoạn nầy là có nhiều phần chắc rằng bài A nhắc đúng lời Lê Lợi đã thề trước mặt các công thần về việc báo ơn Lê Lai và đã bắt mọi người thề theo.
Sự thề chung ấy xẩy ra năm nào ? Câu “cùng Trẫm đói khát mà lập nên thiên hạ, đến có ngày rày mà được phú quí” buộc ta phải đoán vào khoảng sau khi Lê Lợi lên ngôi vua và đã ban thưởng cho các công thần. Toàn thư chép vào khoảng tháng ba năm đầu đời Thuận thiên, Mậu tuất, 1428 : “Vua đại hội các tướng, các bầy tôi văn vũ lớn bé, định việc ban thưởng, theo công cao thấp mà định cấp bậc…” (quyển 10, tờ 57). Lúc bấy giờ Lê Lợi còn ở doanh Bồ đề trên sông Lô, đối ngạn với thành Đông quan.
Rằm tháng tư, Lê Lợi mới xưng đế. Sau khi lên ngôi ít ngày, liền truy tặng cháu điệt, Lê Thạch, chết trận năm Tân sửu 1421, mĩ hiệu Trung vũ Đại vương và phối tự ở tẩm miếu (Toàn thư quyển 10, tờ 58). Thông sử cũng chép y như thế (chuyện Lê Thạch), và, như trên đã kê, lại chép rằng năm ấy cũng phong Lê Lai mĩ hiệu Lũng nhai công thần, ban hàm thiếu úy, thụy Toàn nghĩa. Khá chắc rằng lúc bấy giờ, Lê Lợi nhắc lại lời thề với Lê Lai và bảo các tướng tá và công thần cùng thề. Sau đó, như Thông sử đã chép, vua sai Nguyễn Trãi chép thệ văn và cất vào hòm vàng. Vậy tôi đoán rằng bài A chép lời Lê Lợi thề năm Mậu tuất 1428.
Văn Hóa Việt Nam:
Nữ Trạng Nguyên duy nhất nước Nam
Hình ảnh cây cầu trong ca dao Đông Nam Bộ
Tính cách Nam Bộ trong truyện dân gian của người Việt
Đờn ca tài tử của vùng sông nước phương Nam
4. Xét bài B
Nội dung bài B không liên quan đến sự kiện lịch sử gì đặc biệt. Phần đầu, Lê Lợi thề sẽ nhớ ơn các người phò tá đã ra công giúp mình và hẹn sẽ dặn con cháu nối lời thề ấy. Những câu thề nầy tương tự với những câu thề ta đã thấy trong bài A và trong sách Lam Sơn thật lục (xem chú thích bài A). Trong bản sao Kiều đại, còn có một bài nữa chép những lời thề gần như vậy. Tôi sẽ gọi nó là bài D trong phụ trương sau. Bài ấy có tính cách kì quặc, nửa nôm nửa chữ như trong phần nhiều văn nôm xưa. Phần chữ Hán lại viết rất “nôm na”, tỏ rằng kẻ viết mấy câu nầy ít chữ Hán. Trong bản sao lại hình như đã sót chữ sót câu. Về lời thề có :
“Thánh tổ minh thệ thư son khoán sắt, chỉ núi thề non nguyền thiên hạ. Vái… Hoàng thiên, Hậu thổ, Hoàng hà như đái, Thái sơn như lệ, bất cảm tư ngôn (?)”
Tuy bài nầy không đáng được người ta chú ý và sao chép lại, nhưng đã có kẻ còn giữ lại, thì hình như sự ấy tỏ nó có tư cách lịch sử và xác thực chăng ? Vả chăng những chữ Thánh tổ thấy trong bài ấy thường được dùng bởi Lê Thánh tông để trỏ Lê Lợi (xem bài Lam sơn Lương thủy phú còn chép trong Thiên nam dư hạ tập). Vậy kẻ viết bài D có lẽ ở vào đời Lê Thánh tông. Lại thêm, trong câu đầu, có ghi một địa điểm “xứ Điều thị, huyện Lương, phủ Thiên quan” mà tôi không thấy chép trong sử. Sự ấy khiến tôi nghĩ rằng bài D nầy có gốc chân thật, chứ không phải do một kẻ nào hoàn toàn bịa ra.
Nay tôi hãy quay lại bài B. Đoạn dưới bài nầy là lời Lê Lợi khuyên tướng sĩ phải hòa mục với nhau, phải tin hiệu lịnh và phải theo pháp luật cho nghiêm. Mục đích chính của bài này là chỗ ấy, còn lời hứa hẹn ngày sau thưởng công chỉ là cái mồi để nhử mà thôi. So sánh với kí tải trong sách Toàn thư, ta thấy rằng trong thời kì kháng chiến, Lê Lợi đã để ý nhiều đến sự chỉnh huấn tướng sĩ, hoặc hiểu dụ, hoặc khích lệ nhân dân bền lòng hăng hái chống giặc. Trong năm Đinh vị 1427, thế quân Minh đã nao núng. Tuy vậy theo sách Toàn thư, Lê Lợi hiểu thị tướng hiệu quân nhân các xứ Nghệ an, Tân bình, Thuận hóa rằng :
“Ta dấy nghĩa binh ở đất bay, nay sắp thành công. Mong chúng bay thủy chung một lòng, vàng đá một tiết, để cho vẹn nghĩa vua tôi cha con. Ta biết rằng chúng bay đều là những kẻ sĩ yêu nước. Nhân buổi trước, đời các vua Hưng khánh (Trần Giản định), Trùng quang, luống mang hư danh, làm không được thưởng. Ấy vì chính trị bởi nhiều cửa mà ra ; đại thần không biết đến, cho nên chúng bay luống phí sức như thế. Nay, thiên hạ nhất thống. Ta cùng chúng bay, nghĩa như cha con. Mong hết thảy một lòng thu lại đất nước ta. Từ xưa, các tướng văn vũ được phong hầu, phỏng như chúng bay, không khác. Chỉnh lại đội ngũ bay, luyện quân nhân bay. Khi nào dẹp yên giặc tàn, sẽ chia đôi, một nửa về làm ruộng. Nay trời giao (mệnh) cho ta, dung mệnh thì phá giặc, sống mà được thưởng công. Không nghe mệnh thì chết không thành việc gì. Mỗi đội hãy viết một bản, ngày đọc hai ba bận, để quân nhân biết đó”. (tờ 32, tháng 4 năm Đinh vị 1427).
Cũng cùng khi ấy, ban Mười điều Quân hiến cho tướng hiệu quân nhân : “I) Làm ồn ào trong quân. 2) Trong quân sợ hãi vô cớ, nói bậy về họa phúc khiến dao động quân tình. 3) Trong trận, nghe tiếng trống, thấy cờ chỉ mà giả vờ không nghe không thấy, chần chừ không chịu tiến. 4) Trong trận, thấy hiệu cờ và nghe tiếng la bảo dừng quân mà không dừng. 5) Nghe tiếng chiêng bảo lùi quân mà cưỡng không lùi. 6) Phòng trực không chăm, hoặc ngủ say không giữ, lìa ngũ trốn về. 7) Mê nữ sắc, phóng dục với đàn vợ mà không làm việc quân. 8) Lấy tiền mà thả quân nhân và che giấu không biên vào sổ quân. 9) Lấy sự thích ghét riêng mà điên đảo công tội của người. 10) Đối với quân (ăn ở) không hòa ; gian ác trộm cắp. Mười điều kể trên, phạm đến thì chém”. (tờ 33, tháng 10 năm Đinh vị 1427).
Tháng ấy Lê Lợi ban ba điều răn các quan văn võ : “chớ vô tình, chớ dối trá, chớ gian tham” (tờ 34). Tháng mười một, sau khi giết Liễu Thăng (20 tháng 9) bắt Hoàng Phúc và Thôi Tụ (15 tháng 10), Lê Lợi vẫn đem sáu điều dụ tướng hiệu quân nhân : “Hễ làm tôi con thờ vua phải hết lòng trung ; hễ ở trong quân phải giữ chính trực, chớ làm việc gian trái ; hễ lâm trận đánh giặc bắt tù giết giặc, chớ tranh công nhau ; hễ ở với quân nhân, nếu ai gian ngược làm xằng, nên bắt mà trị tội, nhưng bay cũng coi chừng mà răn kiêng kẻo tội đến mình ; hễ là bầy tôi thị vệ thì chớ cậy được thương yêu mà lăng ngược kẻ khác ; hễ ra làm việc lập công thì phải đem thân mình đi trước, để kẻ dưới thấy mà bắt chước”. (tờ 43).
Ý chừng sau mười năm kháng chiến, tuy được nhiều trận, nhưng những thành kiên cố như Đông quan, Cổ lộng, Chí linh vẫn vững, mà quân dân chịu đói khổ nhiều bề, có khi chán nản. Cho đến những vệ quân Thiết đột, mũi giùi nhọn bực nhất mà cũng sờn lòng. Tháng 4 năm ấy, Lê Lợi dụ các tướng hiệu quân nhân của mười bốn vệ quân ấy rằng : “Hay đồng tâm liều mạng để phá giặc, đó là sức của chúng bay. Còn như vạch mưu, xếp đặt, cơm áo, thăng thưởng thì ở tại ta. Chúng bay chớ sợ cần lao, chớ lo nghèo thiếu. Thấy vợ con ta nghèo thiếu, thì vợ con chúng bay nghèo thiếu. Mong chúng bay một lòng đánh giặc. Chớ sinh phiền não” (tháng 4 năm Đinh vị 1427, Toàn thư quyển 10, tờ 32).
Xem những chứng dẫn trên đây, ta thấy rõ rằng quả nhiên Lê Lợi rất chăm chú đến vận động tinh thần tâm lý của tướng hiệu quân nhân. Vì đó, những lời thề và dụ trong bài B rất hợp với tư tưởng và hành động của Lê Lợi. Cho đến câu dặn trong bài ấy “cho có hòa mục” thoắt nghe thấy lạ, thì bây giờ không lạ nữa. Lê Lợi muốn nói chớ tranh nhau công như trong điều thứ ba trong sáu điều dụ trên đây. Kết luận đoạn nầy là ta có thể tin rằng bài B chép thật lời Lê Lợi. Vả câu “chưng sau thiên hạ thái bình” tỏ rằng lời ấy nói trong thời kháng chiến. Giọng chung cả bài rất có thể hợp với bối cảnh của những lời chép trong Toàn thư, và khiến ta có thể nghĩ rằng thời gian của lời thề nầy là khoảng đầu năm Đinh vị (1427).
5. Xét văn Nôm và chữ Nôm trong hai bài A và B
Tuy bút pháp hai bài nôm trên nầy cao thấp hơi khác, nhưng giọng nôm ấy gần giọng nói chuyện. Toàn bài A có thể chỉ là ghi những câu nói thường, không có ý trau giồi xếp đặt. Những giới từ mà, thì, cho được dùng luôn luôn. Trái với bài A, bài B có tính cách công văn. Vì vậy, tuy văn không hoa lệ, nhưng cũng có vẻ trau chuốt ít nhiều. Trước hết có dùng lối “nói chữ”, nghĩa là trong câu nôm, chêm cả một câu Hán văn, thường là những câu sáo ngữ, tục ngữ hoặc rút trong những sách có tiếng. Ví dụ : Đại Thiên hành hóa ; phủ trị bang gia ; vĩnh thùy trúc bạch ; Quốc gia trường trị, yên như bàn thạch ; Hoàng hà như đái, Thái sơn như lệ ; quang đăng bảo điện ; Nhân nghĩa chi binh hòa mục vi thượng ; Pháp giả thiên hạ công cọng và cuối cùng Thực lộc thiên chung. Những câu Hán văn nầy càng chứng rằng bài B nguyên thật viết bằng lời nôm, vì nếu đó chỉ là lời dịch thì không lẽ gì các câu ấy lại để nguyên văn. Sau nữa, lối dùng chữ chưng ở hai chỗ trong thành ngữ chưng sau cũng là lối “nói chữ” ngày xưa, vì đó là dịch thành ngữ Hán văn ư hậu. Cuối cùng, cú pháp trong bài B gọn gàng phân minh hơn trong bài A. Tuy vậy, những giới từ mà cho và nhất là thì được dùng nhiều.
Một điều không khỏi làm ta ngạc nhiên là từ ngữ trong hai bài trên rất gần từ ngữ ngày nay, trừ một số ít thành ngữ cũ hoặc một vài tiếng dùng với nghĩa cổ ; ví dụ Mai ngày, Nhược dù, Bằng lời, Cả Hòa, Khôn. Những tiếng cổ thường thấy trong những văn thơ đời sau, như tong (trong), ca (ở), mữa (chớ) thì trong bản sao nầy không thấy. Về phương diện nầy, theo kinh nghiệm, tôi nhận thấy, qua các tài liệu xưa mà tôi đã được đọc, hình như Việt ngữ thông thường ít biến chuyển hơn Việt ngữ dùng trong thi văn. Vì vậy, sự văn trong hai bài trên không có vẻ xưa không phải là phản chứng đối với tính xác thật của nó.
Xét đến chữ nôm trong hai bài kia, tôi cũng thấy lối viết nôm trong bản sao Kiều đại không có vẻ xưa, hay lạ. Chỉ có chữ rày (bài A cột 3) là khác thường, vì có chữ lời ở trên đầu. Nhưng đó có thể chỉ bởi kẻ sao lại lầm mà thôi. Hai tiếng Rày và Lời (quốc ngữ cũ viết Lờy) đều viết với chữ Lệ đọc lầy (nay ta nói : lề).
Nói tóm lại, xét từ ngữ và cấu tự nôm trong hai bài A và B, ta nhận thấy với hình thức trong bản sao Kiều đại, hai bài không có tích cách đặc biệt gì là xưa lắm. Nhưng cũng không có chứng gì tỏ rằng nó chỉ là những bài người ta bịa đặt ra đời sau. Trái lại xét nội dung thì hai bài ấy rất có thể đã chép lại lời thật của Lê Lợi. Nhưng chắc không khỏi có những tiếng xưa bị đổi mới, hoặc những chữ nôm xưa bị chữa lại trong nhiều đợt sao chép qua năm trăm năm nay.
Đăng trong Tập San Sử Địa số 01
- nguyên không có đề mục, tôi đặt đề mục tóm tắt đại ý. Sau đây tôi chú giải một vài chữ khó hiểu hoặc khả nghi : Hãy xem bản nôm ở phụ trương ↩︎
- Lê tằng tôn : trỏ Lê Lợi, thuộc đời thứ tư trong gia phổ họ Lê. Thủy tổ là Hối, là tằng tổ Lê Lợi. Đời thứ hai là Đinh, đời thứ ba là Khoáng, là thân phụ Lê Lợi. ↩︎
- Đại Thiên hành hóa : một công thức dùng trong văn liên quan đến vua, và nghĩa là thay Trời dạy dân. Những chấm liền đã được dùng để trỏ lối đầu những chữ phải tôn kính, như Thiên, Thái tổ. ↩︎
- Chỉ huy : từ ngữ dùng đầu đời Lê để trỏ sự qui định của vua. Trong đời Lê Thánh Tông, đổi ra sắc chỉ. Theo Đại Việt sử kí toàn thư thì ngày mồng 8 tháng giêng năm kỉ dậu (1429) vua “chỉ huy cho đại thần văn vũ cùng các lộ, phủ, huyện, châu, trấn rằng hễ ai có việc đến quốc vương và Hoàng thái tử thì dùng chữ khải chứ không được dùng chữ tấu ; xưng hô thì nói Quốc vương điện hạ và Hoàng tử điện hạ ; nếu quốc vương có tuyên cáo hiệu lệnh thì dùng Quốc vương chỉ huy, chứ không được dùng chữ sắc” (quyển 10 tờ 64). ↩︎
- Lê Lai, người đã tự hi sinh giúp Lê Lợi khi mới khởi nghĩa. Lam sơn thật lục chép : “Bấy giờ (vào khoảng đầu năm Mậu Tuất 1418), quân ta chỉ thắng được trận nhỏ, mà thế địch đang mạnh. Vua bèn triệu các tướng bảo rằng : “Ai chịu đổi mặc lấy hoàng bào thay Trẫm cầm 500 quân, hai voi đến đánh thành Tây đô ? Thấy giặc thì chống và hô danh ta đây là chúa Lam sơn, khiến giặc bắt lấy. Ta sẽ có thể náu dấu nghỉ binh, thu tập quân sĩ, để tính việc nổi dậy về sau”. Các tướng không ai dám trả lời. Chỉ có một mình Lê Lai nói : “Tôi tự nguyện đổi mặc áo bào. Ngày sau, Bệ hạ sẽ thành nghiệp đế, lấy được thiên hạ, thì sẽ thưởng công tôi, và con cháu muôn đời sau sẽ được ơn nước. Đó là nguyện tôi”. Vua vái trời khấn rằng : “Lê Lai tráo đổi áo có công. Nếu ngày sau Trẫm và tôn điệt, cùng con cháu tướng tá và công thần không đền công ấy, thì thề rằng thảo điện thành rừng núi, bảo ấn thành (khối) đồng, thần kiếm thành đao (bản in, trang 8 trước, chép thành đạo binh, chắc sai). Vua khấn xong, Lê Lai bèn cầm quân đến cửa giặc khiêu chiến. Giặc cậy quân mạnh, xông ra đánh, Lê Lai cưỡi phi mã xông vào trận giặc, báo rằng : “chúa Lam sơn là ta đây”. Giặc bèn vây, bắt lấy đem vào trong thành, gia cực hình, hơn hẳn ngày thường làm.” (Bản in đời năm đầu Vĩnh Trị, 1676, tờ 8). ↩︎
- Kẻo : khỏi, tránh khỏi. ↩︎
- Chúng bay : Tiếng chúng bay trước trỏ các công thần, tiếng sau trỏ các đại thần. ↩︎
- Thì cho : thì đành chịu. ↩︎
- Thảo điện : nguyên viết, dơn điện, lầm vì tự dạng. Phải đọc thảo điện như thấy trong Lam sơn thật lục (xem mục lục 5) hay trong bài B. ↩︎
- Nhược, nhược dù : nhược là chữ Hán nghĩa là nếu. Nay cũng nói nhược bằng, hoặc dù, hoặc dù bằng. ↩︎
- Nhớ bằng : nhớ như, nhớ đúng như. ↩︎
- Đòng : nôm viết Đồng. Đọc đồng thì vô nghĩa. Đòng là gươm dài và nhọn. Hoặc là nguyên chữ kiếm, kẻ sao đã lầm. ↩︎
- Nghĩa là : Tôi, Nguyễn Đôn, giữ chức đồng tri lễ (đồng nghĩa như phó) ở ti coi việc lễ, vâng lời vua (Lê thánh tông) sao lại, giao cho các tằng tôn của các công thần, mỗi người giữ một bản (hàng con Lê thánh tông là hàng tằng tôn Lê Lợi). ↩︎
- Phủ trị bang gia : vỗ về cai trị nước. ↩︎
- Hỏa thủ : nguyên sao lầm chữ hỏa ra chữ thứ vì tự dạng. Trong bản chép mới Đại Việt Thông sử (Lê Quí Đôn) của H. Maspéro cũng lầm như vậy ở nhiều nơi.
Sách Toàn thư chép vào năm Mậu thân 1428, tháng 12, ngày 12, “chỉ huy rằng các vệ quân đều đặt hỏa thủ làm chánh phó ngụ trưởng” nghĩa là làm chánh và phó coi một nhóm năm người quân (tờ 6I trang sau).
Cũng cùng tờ ấy, sách ấy đã chép ở trang trước, tháng 8 “chỉ huy rằng đổi hỏa đầu làm chánh phó ngụ trưởng”. Ý chừng hỏa thủ và hỏa đầu là một và nguyên trỏ lính lệ hầu các tướng, các quan (Từ nguyên, hỏa đầu), sau cũng trỏ người đầu bếp. Đầu đời Lê, chắc đó là một chức võ quan cao cấp chứ không phải chỉ coi năm người mà thôi ; vì theo Thông sử những tướng quân Lê Nhân Chú, Trịnh Khả, Lê Lí, Lê văn An, Lê Thận đều được ban chức Thiết đột quân hỏa thủ lúc ban đầu mới khởi nghĩa ; và Toàn thư chép rằng tháng 2 năm Mậu thân 1428 qui định thưởng cho 221 người Thiết đột hỏa thủ quân nhân đã cần lao có công ở Lũng nhai (Theo Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, quyển 15 tờ 3 thì Lũng nhai tức là thôn Lũng mi thuộc xã Lam sơn, là nơi Lê Lợi bắt đầu khởi nghĩa) ; những người có công bậc nhất được ban quốc tính, chức đại tướng quân, tước thượng trí tự, bậc nhì được ban quốc tính, chức tướng quân, tước đại trí tự, bậc ba được ban quốc tính, chức tướng quân, tước trí tự (tờ 56). ↩︎ - Thiết đột quân nhân : nguyên sao lầm ra thiết kị đột quân nhân. Chắc vì có kẻ sao đã không hiểu hai chữ liền thiết đột cho nên thêm chữ kị, vì thiết kị là một hạng quân cưỡi ngựa đời xưa. Nhưng Lê Lợi không có quân thiết kị đột, mà có quân thiết đột, là những quân chủ lực có từ khi mới khởi nghĩa và về sau đều tham dự hầu hết các trận lớn. Toàn thư chép : Ban đầu, vua (Thái tổ) kinh dinh bốn phương… chỉ có… vũ thần 30 người, văn thần Lê Linh, Lê Quốc Hưng, quân cha con có thiết đột 200, nghĩa sĩ 200, dũng sĩ 300… (tờ 74).
Trong bản chép Thông sử nói trên cũng lầm nhiều nơi gần như vậy. Đã chép hoặc Thiết đột kị (Chuyện Lê Nhân Chú), hoặc Thiết kị (chuyện Lê Văn An), hoặc Thiết kị đột (chuyện Lê Thận). Chỉ ở chuyện Trịnh Khả chép đúng Thiết đột mà thôi. ↩︎ - Chưng : tiếng cổ, hoặc dịch từ chữ ư (chưng sau : về sau) hoặc từ chữ chi (chưng phúc lộc). ↩︎
- Vĩnh thùy trúc bạch : để lâu dài lại trên thẻ tre và trên tấm lụa (hai vật liệu đời tối cổ dùng để viết). Vì vậy có thành ngữ sử xanh (tre xanh). ↩︎
- Bằng lời, như lời : theo đúng như lời. ↩︎
- Băng : lở đổ. ↩︎
- Hiển hách : tiếng tăm lớn, quyền thế nhiều. ↩︎
- Yên như bàn thạch : nói thế nước vững như tảng đá. ↩︎
- Hoàng hà như đái, Thái sơn như lệ : nghĩa đen là sông Hoàng cạn hẹp như cái dải áo, núi Thái mòn đi còn lại như hòn đá mài. Câu dùng để trỏ, thời gian rất lâu, nguyên dùng trong bài biểu Công thần đời Hán. Câu Kiều “Dẫu rằng sông cạn đá mòn” cũng ngụ ý ấy. ↩︎
- Nghĩa là vẻ vang lên đền quí, tức làm vua. ↩︎
- Khó khôn : khôn là tiếng cổ nghĩa là khó. ↩︎
- Hòa : tiếng cổ nghĩa như và hoặc mà. ↩︎
- Cậy : chữ nôm nầy có thể đọc cậy, cạy. Cậy có thể hiểu nghĩa là tin vào. Nhưng tôi cũng nghi rằng đó là tiếng gửi. Chữ nho thì kí, tiếng ta nay là gửi, phải chăng rằng xưa nói cậy biến âm của kí chăng ? ↩︎
- Nghĩa là : binh dùng với mục đích nhân nghĩa thì lấy sự hòa thuận với nhau làm trên hết. ↩︎
- Nghĩa là : phép luật là chung cho cả mọi người. ↩︎
- Nôm viết sửa. Phải chăng sửa phép tức là trị pháp. Hoặc phải đọc thửa, tiếng cổ dịch chữ kì, nghĩa là ấy. ↩︎
- Nghĩa là ăn lộc rất nhiều (nghìn chung ; chung là một đơn vị lường. Chính chữ là chữ Chung là đúc, chứ không phải là chuông). ↩︎