Lê Xuân
Ca dao – dân ca (CD-DC) là cây đàn muôn điệu của đời sống tình cảm con người Việt Nam. Người bình dân gởi vào cỏ cây, sông nước, đồng ruộng, núi non, chim muông, cầu cống, đình chùa… những vui, buồn, hờn giận, yêu thương. Lấy cảnh ngụ tình là phương thức phô diễn nhiều nhất của CD-DC. Ở Nam bộ tới đâu ta cũng gặp cảnh sông nước mênh mang, kênh rạch chằng chịt chia xẻ các miệt vườn, đem phù sa tắm mát cho cây trái. Ở mảnh đất giàu hoa quả và trí dũng này tới đâu ta cũng gặp điệu hò, điệu lý, tới đâu ta cũng gặp những cây cầu.
Từ “Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi” tới “Cầu ván đóng đinh”, cầu xi măng, cầu sắt… Đã từ lâu, cây cầu không những là phương tiện giao thông mà còn là sợi dây tình cảm xoá sự xa cách giữa nhà “bậu” nhà “qua”, giữa “mình” và “ta”. Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta, nổi những nhịp vui đôi bờ. Nếu ở miền Bắc những cây cầu trong CD-DC được chải chuốt mượt mà mang tính ước lệ với bao ẩn dụ như: chàng trai muốn ngã một “cành hồng” làm câu cho cô gái qua sông, hay cô gái muốn đen cái “dải yếm” mỏng manh của mình để bắc cầu cho chàng trai sang chơi, hoặc người dân mơ tới một cái “cầu kiều” nào đó để cho con được “hay chữ”, thì ở vùng đồng bằng sông nước Cửu Long này có biết bao câu CD-DC mang hình bóng cây cầu theo các điệu hò Cần Thơ, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau. Mỗi câu ca gắn với một hình ảnh cụ thể của tâm trạng nhân vật trữ tình ở một địa phương nhất định.
Ở đây thiên nhiên ưu đãi, ban tặng hào phóng cho con người “cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn”. Nhiều nơi cư dân còn sống chung với lũ, với cầu như hình với bóng. Tới miệt vườn nào ta cũng bắt gặp những cây cầu tre, cầu ván, cầu khỉ… và đâu đây văng vẳng bên tai lời ru của má:
Ví dầu cầu ván đóng định
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi.
Nhưng người mẹ vẫn dặn con:
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học mẹ đi trường đời.
Hoặc: “Khó đi bậu vẫn cứ đi/ Mượn ly uống rượu, mượn đờn đánh chơi”, thì ta chẳng còn thấy cái khó, cái khổ đâu nữa mà ta chỉ còn thấy cái chí, cái tình, cái vui. Đó chỉ là “ví dầu” thôi, chứ thực ra chẳng có cầu nào ngăn được lòng người. Cây tre gắn bó với con người Việt Nam từ xưa tới nay, và cây tre cũng được dùng làm cầu nhiều nhất ở vùng kênh rạch chằng chịt này. Cũng vì chiếc cầu tre “lắt lẻo” mà chàng trai bộc lộ một nỗi lo:
Cầu tre lắt lẻo anh thắt thẻo ruột gan
(Hò Cần Thơ)
Sợ em đi chữa quen đàng
Rủi em có mệnh hệ,
lỡ làng duyên anh.
Cầu tre đã yếu, đã khó đi còn những cầu ván mỏng, ván yếu, ván oằn thì sao? Ta hãy lắng nghe ước mơ của một cô gái:
Anh về xẻ ván cho dày
Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ sang.
Các cô gái đôi khi mượn cầu yếu, cầu chênh vênh để được người yêu dắt qua, và để được gần nhau:
Cầu cao ván yếu gió rung
(Hò Trà Vinh)
Em không đi được cậy cùng có anh
Một chàng trai bộc lộ nỗi ngờ vực đối với bạn tình:
Cầu cao ván yếu,
(Hò Kiên Giang)
con ngựa nhỏ xíu, nó chạy tứ linh
Em đi đâu tăm tối một mình
Hay là em có tư tình với ai?
Từ hình ảnh “cây cầu ván yếu”, đôi bạn tình khuyên nhau cần phải giữ, phải nương tình bạn:
Cầu cao ván yếu phải nương
(Hò Cần Thơ)
Từ rày lũ bạn thôi thương chúng mình
Và đây là lời của một cô gái chủ động bắc một cây cầu có mười hai tấm ván thật chắc để đợi người yêu. Con số 12 cũng là biểu trưng mười hai bến nước cuộc đời mà cô gái sẽ chọn một bến nước nào trong, bến nào có anh:
Bên này sông
(Hò Sóc Trăng)
em bắc cầu mười hai tấm ván
Bên kia sông
em lập cái quán hai tầng,
Ba nơi đi nói, không ưng
Bán buôn nuôi mẹ,
cầm chừng đợi anh”
Chàng trai trong điệu hò Cần Thơ lại liên tưởng giữa “miếng ván cong vòng” và tính “ham mê cờ bạc” của em để có một lời khuyên:
Bước lên cầu ván mỏng,
miếng ván cong vòng
Thấy em mê cờ bạc,
trong lòng hết thương.
Nhưng nếu em là người anh ưng, anh cất công tìm kiếm, thì cầu gì anh cũng chẳng ngại:
Xa nhau anh muốn lại gần
(Hò Bạc Liêu)
Cầu không tay vịn, anh lần anh qua
Cho dù “cầu ván đóng đinh” thật vững, nhưng nỗi đau, nỗi bực dọc của chàng trai nghèo xa xứ không tiền cưới vợ vẫn cứ ám ảnh:
Bước xuống cầu, cầu oằn, cầu oại
(Hò Long An)
Bước xuống tàu, tàu chạy, tàu nghiêng
Em thương anh bóp bụng đừng phiền
Đợi anh về xứ kiếm tiền cưới em”
Hai câu đầu của giọng hò đối nhau chan chát với cách ngắt nhịp ngắn 3/2/2 diễn tả một tâm trạng, một chí hướng của chàng trai. Thế mới biết sức mạnh của tình yêu! Bởi vì chàng trai này không có hai lòng, không đứng núi này trông núi nọ như những chàng trai khác:
Bậu đừng dứt nghĩa cầu Ô
(Hò Đồng Tháp)
Chớ anh không phụ Hớn,
chuộng Hồ như ai
Chàng thề thốt:
Phải chi ngoài biển có cầu
(Hò Bạc Liêu)
Để anh ra đó giải đoạn sầu cho em
Lời nói của chàng mộc mạc thẳng thắn, tuy có pha chút dỗi hờn:
Cầu cao ván yếu, gió rung
(Hò Cà Mau)
Em thương anh thì thương đại,
ngại ngùng thì đừng thương
Em đừng ỡm ờ “dở đục dở trong”, đừng như “Con thỏ đứng đầu truông/ Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng”. Nỗi vẫn vương, nghi ngờ được giải toả và cả hai cùng cất lời thề:
Bao giờ cầu nọ hết quay
(Hò Trà Vinh)
Thì ta với bậu
mới hết dây cang thường
Họ muốn đem ước mơ hạnh phúc ban phát cho cả loài vật, xoá đi sự xa cách:
Bắc cầu cho kiến leo qua
(Hò Vĩnh Long)
Để cho ai đó sang nhà tôi chơi
- Băm Lăm con dê – Con dê trong văn hóa và ẩm thực người Việt
- Nét đặc trưng văn hóa của chùa Việt
- Cái yếm của cô gái Việt
- Nguồn gốc thú vị của từ Ba Que Xỏ Lá
Điệu “Lý qua cầu” cứ văng vẳng khắp miền sông nước, trên ghe, trên xuồng. Các chàng trai cô gái tỏ tình, giận hờn, nguyện ước, chia tay bên những cây cầu. Con người Nam Bộ luôn mang trong mình chất “dõng dã”, “trọng nghĩa khinh tài”. Vì thế trong điệu hò, họ khuyên nhau đừng vì “cầu danh vọng” mà “tham đó bỏ đăng”:
Cầu nào cao bằng cầu danh vọng
(Hò Đồng Tháp)
Nghĩa nào trọng bằng nghĩa tào khang
Họ chỉ sợ những kẻ “qua cầu rút ván” quên đi “cầu ái, cầu ân”. Đến tình yêu của Ngưu Lang và Chức Nữ cũng làm cho Ngọc Hoàng cảm động, bắt qua đuôi nhau thành cầu “Ồ Thước” để hai nối người gặp nhau vào ngày mùng 7-7 âm lịch hàng năm. Không gì dài bằng thời gian đợi chờ trong tâm lý của người đang yêu:
Duyên ưa có thấu tình nhau
Ngày nào Ô Thước
bắc cầu sông Ngân?
Nếu tình duyên trục trặc thì dù có đi qua cầu sắt vững chắc đến đâu họ vẫn thấy không vững:
Anh đi qua cầu sắt, anh nắm tay em
(Hò Sóc Trăng)
thật chắc, miệng hỏi gắt chung tình
Bướm xa bông tại nhuy,
anh xa mình tại ai?
Ngày nay trên đất nước ta đã có bao nhiều cây cầu hiện đại đi vào lịch sử như: cầu Long Biên, cầu Hàm Rồng, cầu Hiền Lương, câu Mỹ Thuận… Những cây cầu Việt Nam nói chung và ở vùng đông băng Nam bộ nói riêng, dù làm bằng “dải yếm “cành hồng”, “Ô Thước”, dù đó là cầu quay, cầu tre, cầu sắt hay cầu kiều thì tất cả cũng đều là “cầu ái cầu ân”, cầu tình. cầu nghĩa, và ai cũng biết không nơi nào trên mảnh đất hình chữ S này lại nhiều cây cầu như ở 13 tỉnh, thành khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Cầu trong thành phố, cầu ở xóm quê, cầu ở sông cái, sông con, cầu qua kênh, mương, rạch… Những cây cầu muôn đời nay vốn gắn bó thân thương với đời sống lam lũ của người lao động. Nó ẩn hiện lung linh trong tâm hồn họ qua mỗi điệu hò, điệu lý. Nó ngân vang mãi với sóng nước mênh mang, với muôn vạn nỗi lòng *