Linh vật Con Nghê trong văn hóa Việt

Con Nghê cồng làng
nhìn người đi về

Con Nghê và chó đá là hai linh vật thuần Việt của văn hóa nông thôn Việt Nam. Từ thời nhà Lý, việc xây dựng đình, miếu, lăng mộ phát triển khắp nơi khiến cho các nghệ nhân kiến trúc và trang trí cần có một linh vật ngồi trên trụ biểu nghi môn tam quan, bìa mái đình miếu và ngồi trước lăng mộ ngang hàng với tứ linh (long, lân, qui, phụng). Từ nhu cầu đó mà nghệ nhân chọn con chó đá linh thiêng hiện dân chúng đang thờ để cho thăng hoa thành con nghê có nghĩa là con nghê ra đời từ sự thăng hoa của con chó đá vào lãnh vực tâm linh.

Con nghê xuất hiện khắp nơi, trên các nghi môn tam quan của đình, ngay trước cổng làng, lăng mộ, dưới nóc mái, bờ đao trong kiến trúc đình chùa, nhà ở… Tượng nghê tạo nên một cảm giác thân thiện, gần gũi, thân thương mỗi lần đi đâu về nhìn vào con nghê ở cổng làng, trước đình. Nhưng nếu hỏi con nghê là con gì?

Câu giải thích đang lưu hành dựa trên chữ Nghê猊là tiếng Hán Việt (gồm bộ cẩu (khuyển) và chữ nhi兒(nhỏ) và hiểu nghê trong “Toan nghê” 狻猊 chỉ con sư tử[1] của từ điển chữ Hán[2] rồi nhìn tượng nghê mình chó, đầu “hơi giống đầu sư tử” mà đưa ra giải thích con nghê là chó đá “thăng hoa” hay “linh hóa” thành con sư tử, con lân.

Theo chúng tôi, giải thích trên có phần sai lầm nếu dựa trên các lý lẽ (argument) sau:

(1) Ngoại hình con nghê có liên hệ với một con của con rồng,

(2) Quan sát và so sánh ngoại hình con nghê, rồng toan nghê và con sư tử,

 (3) Tính linh và ngoại hình của con nghê được giải thích bởi ý nghĩa và nguyên tắc “thănghoa”.

Liên hệ con nghê với con rồng toan nghê

Trong kiến trúc, điêu khắc, chúng ta chịu ảnh hưởng nhiều về các linh thú hư cấu Trung Hoa nhất là rồng. Theo thuyết Long sinh cửu tử 龙生九子) của người Trung Hoa thì rồng sinh ra mười con:

• Nhưng chỉ có một con là rồng thường dùng làm biểu tượng cho vua,

• Chín con còn lại có nhiều hình dáng, sở thích khác nhau (long sinh cửu tử bất thành long – 龙生九子不成龙), không phải là rồng nhưng vẫn được coi thuộc giống rồng[3]. Yếu tố tạo nên sự dị dạng của chín đứa con nói trên là do các hữu sở hiếu (各有所好- mỗi con đều có sở thích riêng – theo Hán – Việt từ điển trích dẫn).

1.Bi Hi, 2. Li Vẫn, 3.Bồ Lao, 4.Bệ Ngạn, 5.Thao Thiết, 6.Công Phú, 7.Nhai Ti, 8.Toan Nghê, 9.Tiêu Đồ

Trong số 9 con của rồng, chúng ta đặc biệt chú ý đến ngoại hình của con rồng toan nghê số 8 để biện minh cho lời giải thích chó đá thăng hoa thành con rồng toan nghê vì cái đầu con nghê và đầu rồng toan nghê giống hệt nhau.

Muốn giải thích vị trí các con của rồng trong kiến trúc, điêu khắc (chân cột cung điện, ngai vua, long ấn, cán gươm, đỉnh bia đá…) thí dụ như trong hoàng thành Huế, thì phải hiểu rằng nghệ nhân đều chọn vị trí theo cá tính của 9 loại rồng theo sự mô tả của Lý Đông Dương[4], Dương Thận[5], Trần Nhân Tích[6]. Dưới đây là bảng tóm tắt hình ảnh và vị trí của 9 con của rồng.

Tên gọi 9 con của rồngVị trí
1. Bi HiChân cột, chân bia
2. Li VẫnĐầu nóc mái cổ
3. Bồ LaoQuai chuông
4. Bệ NgạnChính diện kiến trúc
5. Thao ThiếtĐồ đựng thức ăn, uống
6. Công PhúcCầu cống, tầu bè
7. Nhai TiKhắc trên đao, gươm
8. Toan NghêĐinh trầm, lư hương
9. Tiêu ĐồCửa ra vào

Suy đoán bằng quan sát, so sánh

Với hình ảnh con thứ tám toan nghê[7] của giống rồng theo truyền thuyết Trung Hoa “Long sinh cửu phẩm[8] chúng ta quan sát, so sánh tượng hình con nghê với con rồng toan nghê và tượng đá sư tử bằng cách đặt tượng hình 3 con cạnh nhau (nghê, rồng toan nghê và sư tử). Chúng ta thấy gì? chúng ta nhìn thấy ngay:

– Con nghê có mình chó, chân chó, đuôi chó ngắn hoặc dài vắt lên, mõm dài, hai chân trước thường đặt song song nhau như chó đá cổ truyền nhưng có răng nanh, mõm cười và cái đầu giống đầu con rồng toan nghê.

– Con nghê chẳng có điểm nào giống con sư tử. Sư tử Việt Nam cũng như sư tử Trung Quốc thì béo tròn, cơ bắp, mặt dữ tợn, mõm ngắn, đuôi ngắn, lông đầu xoăn tít, đặt chân lên trái cầu.

Sự quan sát và so sánh này cho thấy rõ ràng về ngoại hình con nghê Việt là chó đá trong tín ngưỡng của người Việt thăng hoa thành con nghê mang mình chó, đầu rồng toan nghê.

Con rồng toan nghê (hình vẽ giữa) hai bên là con nghê Việt Nam
Sư tử đá Việt, Bảo tàng Thanh Hóa (4) Tượng sư tử đá Trung Quốc

Ý nghĩa và nguyên tắc thăng hoa

Khi nói chó đá thăng hoa có nghĩa chó đá đi vào tín ngưỡng tâm linh và biến đổi tiến lên một cấp bậc cao quí hơn. Khi vẽ hay tạc tượng một động vật hay sinh vật thăng hoa thí dụ như cá chép hóa rồng, mai hóa long, chó đá hóa con nghê, nghệ nhân phải hiểu rõ ý nghĩa thăng hoa và nguyên tắc thăng hoa của động vật hay sinh vật trong nghệ thuật tạo hình của dân gian.

Ý nghĩa thăng hoa. Thăng g 升: bay lên, thăng cấp, Hoa 化: biến đổi, cải biến.

Nguyên tắc thăng hoa. Qua các tác phẩm thăng hoa, nghệ nhân luôn luôn tôn trọng 2 nguyên tắc sau:

Nguyên tắc 1. Thăng hoa là bay lên địa vị cao hơn và biến đổi, thí dụ cá chép phải vượt qua Ngũ Môn, bay lên trời rồi mới hóa rồng. Chó đá thăng hoa cũng phải theo qui ước đó tức phải bay lên trời để biến đổi thành một linh vật trên trời là con rồng (toan nghê) hay con phụng bay trên trời.

Chó đá và sư tử đều phục dưới đất trước nhà, lăng mộ, canh giữ chống tà ma nên nói chó đá thăng để thành sư tử là điều trái với nguyên tắc thăng hoa.

Nguyên tắc 2. Sau khi thăng hoa thành rồng thì chỉ có cái đầu cá chép biến đổi thành đầu rồng còn thân hình cá chép vẫn giữ nguyên. Nguyên tắc này cho ta nhìn thấy khi tạo tượng hình chó đá thăng hoa thành con nghê thì nghệ nhân vẫn giữ thân hình chó đá ở dưới và chỉ có đầu chó đá biến thành đầu con rồng toan nghê[9].

Nguyên tắc này cũng phản ánh cách thức của người Việt đồng hóa với văn hóa Viễn Đông mà vẫn giữ lại một phần bản sắc văn hóa Việt thí dụ về y phục vẫn giữ lại cái váy, về ngôn ngữ bên cạnh tiếng Hán Việt vẫn giữ lại tiếng Việt cổ của vua Hùng, v.v.

Vài hình ảnh thăng hoa làm thí dụ

Cá chép hóa long.
(1) Hoa văn tại đình làng: cá chép vờn sóng trước khi vượt Ngũ Môn.
(2) Cá chép vượt Ngũ Môn.
(3) Hình cá chép hóa rồng, chỉ có đầu cá chép là hoa tức biến đổi thành đầu rồng.
(4) Hoa văn cá chép hóa rồng chạm trổ tại đình làng.
(5) Tượng cá chép hóa rồng tại Đà Nẵng, tọa lạc đoạn giữa cầu Rồng và cầu sông Hàn thuộc bờ Đông của sông Hàn.
Mai hóa rồng. Mai hóa rồng, chỉ có gốc mai thăng hoa thành đầu rồng

Văn hóa Việt Nam:
Hình tượng Chó Đá trong văn hóa Việt Nam
Giai thoại về câu đối Tết của người Việt xưa
Tục thưởng xuân của đồng bào Chàm Hồi giáo miền Trung và miền Tây

Tượng hình con nghê trong lịch sử

Về tài liệu hình ảnh nghê làm bằng đá, gỗ, gốm, đất nung, phần lớn đều do Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Nam Định cung cấp.

Con nghê được định hình vào thời nhà Lý trong các công trình kiến trúc nghệ thuật và trên văn bia “Minh tịnh tự bi văn” (tìm thấy ở nghè thôn Tế Độ, xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Từ đó con Nghê hiện diện ở nhiều nơi miền Bắc nhất là trước cổng làng, cổng đình miếu, ngồi trên bình hương trầm, các nậm rượu.

Về hình dáng, từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn, con nghê vẫn giữ được những nét cơ bản ngoại hình của mình chó đá, đầu rồng toan nghê:

– Nét chó đá: mình thon nhỏ, chân chó, đuôi ngắn gọn hoặc dài vắt ngược lên lưng

– Nét rồng toan nghê: đầu có kỳ mà không có sừng, mõm dài mở rộng như cười có răng nanh của rồng.

Nghê đá đền vua Đinh Tiên Hoàng
(1) Nghê đá đền vua Đinh Tiên Hoàng. Đền vua Đinh (Trường Yên, Hoa Lư) có hai cặp nghê đá, một cặp trước nghi môn ngoại và một cặp nghê đá trước bái đường.
(2) Nghê gỗ thời Lý.
(3) Nghê – Đình Giá, tỉnh Nam Định – Thế kỷ XVIII – gỗ – Cao: 58cm – Sưu tập Bảo tàng Nam Định.
(4) Nghê đền vua Lê Thánh Tông – Thanh Hóa, gỗ, TK XVII, hiện vật Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
(5) Cặp Nghê – Đình Lâu Thượng, Phú Thọ – Thế kỷ XVIII – Gỗ – Cao: 68,5cm – Sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Nghê gỗ chùa Xổi Thượng
(1) Nghê – Thế kỷ XVII – Đá – Cao: 46cm – Sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
(2) Nghê – Thôn Hồng Tâm, Nam Định – Thế kỷ XVII – Đồng – Cao: 67cm – Sưu tập Bảo tàng Nam Định
(3) Nghê gỗ chùa Xổi Thượng, tỉnh Nam Định, Thế kỷ XVII – XVIII
(4) Đôi nghê điêu khắc tại đền vua Đinh, thế kỷ XVII, tại Hoa Lư Ninh Bình
(5) Đôi nghê chầu hai bên sập rồng tại đền vua Đinh

Sang thời nhà Nguyễn ở Huế, con nghê mình chó đầu rồng toan nghê không còn mà con nghê mang hình ảnh của con rồng toan nghê giống tượng hình sư tử có nhiều răng, đuôi xòe như ngọn lửa thật oai vệ thí dụ như con nghê trên ấn vua, hai con nghê trấn giữ trước cửa Hiển Nhơn, Đại Nội Huế, lăng Tự Đức …

Tượng rồng toan nghê trên ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” bằng vàng, thời Lê Trung Hưng
(1) Tượng rồng toan nghê trên ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” bằng vàng, thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709). 
(2) Tượng rồng toan nghê trên các ấn làm bằng ngọc, cẩm thạch, thủy tinh thời Nguyễn, Thế kỷ XIX – XX, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.

Nghê được sáng tạo theo làng nghề và nghệ nhân

Nhiều tượng nghê được làng nghề và nghệ nhân trang trí thêm vào các chi tiết sau: tai hình dẻ quạt, có gân, bờm xoã xuống lưng, có dáng ngồi với chân trước thẳng, phía dưới bụng có hai lớp lông dài xoắn vân mây rồi đến hàng vẩy bụng rắn chạy dài ra phía đuôi, chân nghê không có vảy nhưng được trang trí bằng các lớp đao lửa bay về phía sau.

Vị trí con nghê

Con nghê trên cổng làng, đình, miếu

Cổng làng, đình miếu có thể mang dạng cổng tam quan (tam môn) có 3 cửa và 4 trụ biểu để đặt đôi nghê và tứ phượng trên đỉnh. Chó đá, sư tử bao giờ cũng ngó nhìn ra đàng trước trong tư thế canh giữ còn điểm đặc thù của đôi nghê là ngồi chầu vào nhau ngó lên tứ phượng trên hai cột giữa như để chào đón nên có câu nghê chầu phụng múa.

Môi người đều có một nghề
Con phượng thì múa, con nghê thì chầu.

Cổng làng xưa[10]
nhớ hay quên
con nghê
(LC, haijin)

Tại đình, đôi nghê tọa trên trụ cột của nghi môn tam qua
(1) Nghê trên cột trụ biểu bên ngoài ở đền Trấn Vũ, đỉnh 2 cột trụ biểu bên trong là tứ phượng,
nghê cặp đôi với phượng hoàng nên dân gian có câu: “Làm Phượng thì múa làm Nghê thì chầu”
(2) Dàn Nghê chầu trước Thái miếu nhà Lê ở Thanh Hóa
(3) Mộ Thượng Thư Bộ binh Nguyễn Tường Vân (1772-1820) tại thôn Xuân Tây, xã Đại Tân,
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Cụ tổ 5 đời của anh em Nguyễn Tường của Tự Lực Văn Đoàn.

Vị trí con nghê trong điêu khắc, trang trí

Con Nghê còn được điêu khắc trên gỗ dùng để trang trí trong các ngôi đình

– Nghê được đặt trên đầu đao (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (mã tấu) nên gọi là đầu đao) như đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc Giang), làng Trung Cần (Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây)…

– Nghê được chạm trên cốn (xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), như trên cốn đình làng An Hoà (Hà Nam), Phất Lộc (Thái Bình), cột đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh).

Hoa văn nghê, sấu điêu khắc trong đình làng

– Con Nghê thường được trang trí trên các món đồ gốm cổ như: Tượng con Nghê, Bình đốt trầm hương trên bàn thờ, Nậm rượu hình con Nghê, Chân đèn hình con Nghê, Đĩa trang trí hình con Nghê[11].

Con Nghê còn cười hay khóc?

Từ năm 1954, cách mạng xã hội chủ nghĩa với phong trào bài trừ mê tín, hai linh vật thuần Việt con nghê cũng như chó đá cùng chung số phận với một số đình, đền miếu, bị đập phá. Sau khi Đổi Mới năm 1986, văn hóa cổ truyền của tổ tiên được phục hồi, một số sanh hoạt như lễ hội, ca trù, lên đồng trước bị cấm nay thì lại được hồi sinh rất mạnh mẽ. Nhưng, tiếc thay, tục thờ chó đá và linh vật nghê thuần Việt thì vẫn bị thất thế bởi:

– Người khảo cứu quên lãng vì thiếu tài liệu lịch sử[12].

– Người dân và ngay cả một số quan chức chăm lo văn hóa không được hướng dẫn bảo tồn văn hóa Việt nên đã chạy theo linh vật Trung Hoa; sư tử, kỳ lân Trung Hoa thay thế con Nghê ngay cả ở những di tích cổ lịch sử.

– Ở Non Nước, Đà Nang-Hội An, các nhà khắc chạm cẩm thạch cũng như các lò gốm đâu đâu cũng chỉ sản xuất toàn sư tử, con Lân mà không có con Nghê[13].

Trước sự ô nhiễm văn hóa Việt bởi xâm lăng của các vật thể văn hóa ngoại lai, may thay một số quan chức đã thức tỉnh nhưng phản ứng rụt rè.

Cục Mỹ thuật – Nhiếp ảnh và Triễn lãm, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã ban hành văn bản 2662/BVHTTDL-MTNATL cảnh báo về xâm lăng văn hóa Trung Quốc.

Tổ chức triển lãm chuyên đề “Hình tượng sư tử và nghê trong nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam” (diễn ra từ ngày 7-17/11 tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, số 66 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) rất là hữu ích cho sự hiểu biết của người dân.

Tháng 8/2013, trang web Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV) đã nêu chuyện “Loạn sư tử đá ” khiến Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch khuyến cáo nhiều nơi phải dọn những đôi sư tử đá theo mẫu Trung Quốc. Ngày 9/12/2013, Sở Văn hoá – Thể thao và Du lịch Hà Nội cho biết sau khi kiểm kê di tích, sở sẽ kiên quyết loại bỏ những hiện vật như đèn lồng, sư tử đá kiểu Trung Quốc… ra khỏi các di tích cổ truyền. Vậy là dân Việt đã đi theo con đường của Dominica, République dominicaine, Trung Mỹ[14].

Lạp Chúc Nguyễn Huy


[1] Dấu vết sư tử còn được tìm thấy trong cả hai từ điển của Taberd và Huỳnh Tịnh Của. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của định nghĩa: Nghê [SỈỊ là “loại thú giống sư tử” nhưng khi lý giải “con nghê” thì lại dẫn “tại sông Đồng Nai có gộp đá lớn giống hình con trâu, người ở đó gọi là con nghê”. Còn Dictionarium Anamitico Latium (Từ điển Annam – La tinh) của J.L.Taberd thì chú giải về “nghê” là “quocddam animal leoni simile” (động vật như con sư tử). Từ điển Thiều Chửu cũng cho rằng “toan nghê” tức là con sư tử.

[2] Vì hiểu sai là sư tử nên sách ngoại quốc cũng dịch sai con nghê là lion, foo dog (dịch từ phúc khuyển của Trung Hoa).

[3] Tên gọi thì có nhiều khác biệt tùy theo óc tưởng tượng. Chẳng hạn, theo “Hoài Lộc Đường Tập”(懷麓堂集), tên của “Long Sinh Cửu Tử” lần lượt là: Ngưu Tù, Nhai Xải, Trào Phong, Bồ Lao, Toan Nghê, Bí Hí, Bệ Ngạn, Phụ Hí, Li Vẫn. Còn theo “Thăng Am Tập” (升庵集) thì đó là: Bí Hí, Li Vẫn, Bồ Lao, Bệ Ngạn, Thao Thiết, Công Phúc, Nhai Xải, Toan Nghê, Tiêu Đồ.

[4] Theo “Hoài Lộc Đường Tập” của Lý Đông Dương (李东阳, 1447-1516), tên của “Long Sinh Cửu Tử” lần lượt là: Tù Ngưu, Nhai Xải, Trào Phong, Bồ Lao, Toan Nghê, Bí Hí, Bệ Ngạn, Phụ Hí, Li Vẫn/Si Vĩ.

[5] Còn theo “Thăng Am Ngoại Tập” của Dương Thận (杨慎, 1488-1559) thì đó là Bí Hí, Li Vẫn/Si Vĩ, Bồ Lao, Bệ Ngạn, Thao Thiết, Bá Hạ (杨慎, thường bị viết sai thành Công Phúc (蚣蝮)), Nhai Xải, Toan Nghê, Tiêu Đồ Long (Rồng).

[6] Quyển Tiềm Xác Loại Thý 潛確類書 của Trần Nhân Tích 陳仁錫 liệt kê 9 loại con cháu của rồng tùy theo cá tính của chúng.
1. Rồng Triều phong 朝風 hay đương đầu với giông tố nên được đúc, chạm lên nóc đền miếu để chống sụp đổ;
2. Rồng được khắc chạm vào ngai, long sàng, trường kỷ, trang trí trên lư hương trầm vì cá tính rồng Toan nghê 狻猊 mình sư tử, đầu rồng thích nghỉ ngơi, ngắm cảnh;
3. Rồng Bí hí 贔屭 có đầu dáng rồng, thân dáng rùa có cá tính yêu thích văn chương nên rồng Bí Hí được khắc hay đúc các vật liên quan đến văn chương thí dụ hình rồng Bí Hi khắc trên bảng rồng đề tên tiến sĩ trúng tuyển và đúc thành tượng trên bia đá . Vì tượng rồng Bí Hi giống dáng con rùa nên có người cho rằng rùa đội bia đá tiến sĩ ở Văn Miếu chính là con rồng Bí Hi;
4. Trên chuôi gươm, đao khắc rồng Nhai xải 睚眥 vì giống này thích giết chóc;
5. Khắc chạm rồng trên chuông, mõ vì rồng Bồ lao 蒲牢 có tiếng kêu lớn;
6. Vì thích hút nước nên hình rồng Li vẫn 蚩吻 hiện diện ở chân cầu hay nóc đền đài để chống hỏa hoạn;
7. Hình rồng chạm trên trục lên dây đàn là do khiếu thẩm âm của rồng Tù ngưu 囚牛;
8. Tượng rồng khắc ở chân cột, chân các công trình kiến trúc vì rồng Bá hạ 霸下 có thể mang vác nặng;

[7] Theo “Hoài Lộc Đường Tập” của Lý Đông Dương (李东阳, 1447-1516), tên của “Long Sinh Cửu Tử” lần lượt là: Tù Ngưu, Nhai Xải, Trào Phong, Bồ Lao, Toan Nghê, Bí Hí, Bệ Ngạn, Phụ Hí, Li Vẫn/Si Vĩ. Còn theo “Thăng Am Ngoại Tập” của Dương Thận (杨慎, 1488-1559) thì đó là Bí Hí, Li Vẫn/Si Vĩ, Bồ Lao, Bệ Ngạn, Thao Thiết, Bá Hạ (?�, thường bị viết sai thành Công Phúc (蚣蝮)), Nhai Xải, Toan Nghê, Tiêu Đồ Long (Rồng).

[8] Trừ nhà nghiên cứu Huỳnh Thiệu Phong thừa nhận chỉ “tạm xem chữ “nghê” trong cách gọi linh vật này là cách rút gọn từ chữ “nghê” trong tên gọi của một trong những đứa con của rồng. biến đổi hoàn toàn về ngoại hình, chức năng và đặc điểm của nó để biến đổi thành một con vật thuần Việt.

[9] Chó đá thăng hoa thành con rồng toan nghê khác với “lý ngư hóa long” là không có truyền thuyết trong dân gian. Cá chép hóa rồng thì truyền thuyết dân gian cá chép phải vượt ngũ môn để hóa rồng.

[10] Cổng làng dạng tam quan gồm 4 trụ, Hai trụ biểu tại giữa cao, đỉnh trụ trang trí tứ phượng; Hai trụ biểu hai bên thấp, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu. Cả 4 trụ biểu đều có thân trụ phía trên là các ô lồng đèn, phía dưới trang trí hoa văn, giữa là ô trang trí câu đối

[11] Tiêu biểu như: Nghê thời Lý thế kỷ 17 làm bằng gốm ở chùa Cổ Chất, tỉnh Nam Định; Nghê đá, thế kỷ 17, lăng Họ Ngọ, Hiệp Hòa, Bắc Giang; Đôi nghê đá, thế kỷ 18, lăng Dinh Hương, Hiệp Hòa, Bắc Giang; Nghê đá, thế kỷ 17, đền Gióng, Gia Lâm, Hà Nội;

[12] Một cuốn sách có lẽ duy nhất của Trần Hậu Yên Thế, Phác Họa Nghê, NXB Thế Giới.

[13] Mới đây có Công ty Vạn Bảo Ngọc (trụ sở tại Ninh Bình) đã tiên phong đi đầu trong hoạt động nghiên cứu, sản xuất linh vật thuần Việt.

[14] Năm 2012, Trung Quốc giúp vốn xây cầu Hữu Nghị Dominica – Trung Quốc ở Dominica, Trung Mỹ rồi đặt đôi sư tử tại đầu cầu. Người dân phẫn nộ cùng nhau kéo đến đập bỏ đôi sư tử để vạch ra một ranh giới rõ ràng về văn hóa.

5/5 - (3 votes)

Bạn có bình luận gì không?

Item added to cart.
0 items - 0VND