Giai thoại về câu đối Tết của người Việt xưa

cau doi tet xua
7 views
8 phút đọc
Nội dung

TÔ-NAM NGUYỄN-ĐÌNH-DIỆM

NHỮNG tài liệu hùng hồn xác thực để chứng minh ai là tác-giả một câu đối tết tuyệt diệu ngày xưa.

Theo lệ thường niên gần cuối tháng chạp, thành thị cũng như thôn quê, đâu cũng xôn xao sắm tết, ngoài món nêu cao pháo điện, giò chả bánh chưng, người ta vẫn không quên được món câu-đối đỏ. Các nhà yêu văn mỗi khi nhắc đến chuyện câu-đối đỏ thì cũng không quên nhắc đến câu đối của cụ Nghè Chu viết cho người chủ mành Nghệ trước đây già nửa thế-kỷ mà ai cũng phải ca tụng là câu độc đáo, chẳng những từ đấy về trước, mà cả từ đấy về sau, chẳng còn câu nào có thể sánh kịp!

Thế mà lạ thay! Không hiểu căn cứ vào đâu? Hay bởi những tay hiếu sự lập dị? lại bảo vế trên là của cụ Nghè ; còn vế dưới kia cụ không tìm được chữ đối, phải nhờ cụ Cử hay cụ đồ nào đó đối giúp.

Câu truyền ngôn trên theo ý riêng rôi thì nó đã làm thương tổn văn danh của bậc thi hào quá cố, nếu nó là câu thất thiệt chẳng cũng ân hận lắm sao? Vì thế chúng tôi phải cố công tìm kiếm cho ra sự thực.

May sao trước đây độ hai chục năm, khi còn ở ngoài đất bắc, chúng tôi thường hay qua lại bến đò Hưng-Yên, có được quen biết một cụ đồ già ở ngay chợ Gò thuộc huyện Kim-Động ; Thấy cụ nhớ nhiều chuyện cũ, tôi bèn hỏi rõ nguyên ủy về câu đối ấy có đúng như lời đồn lại rằng do cụ Nghè và mấy cụ nữa hợp sức mới làm nên được hay không?

Hỏi xong thấy cụ tỏ ý bất mãn, phủ nhận những lời truyền ngôn, rồi cụ thuật lại một cách rất là tỉ mỉ như sau:

Cụ nói khoảng cuối năm Nhâm-Dần (1902) hay là Quý-Mão (1903) gì đó, lâu ngày tôi không nhớ rõ. Chỉ nhớ được rằng lúc ấy quan Nghè Chu-mạnh-Trinh đương làm Án-sát Hưng Yên, mà cụ là học trò quan Nghè, lúc nào cũng ở bên cạnh. Năm ấy có một ông chủ mành Nghệ chở hàng ra bắc bán xong, vào khoảng 20 tháng chạp định trở về quê ăn tết, vì không thuận gió, đành phải đỗ lại ở bến Hưng Yên, cùng với mấy chục thuyền mành chúng bạn, bỏ neo xếp hàng chữ nhất một quãng khá dài, thuyền nào cũng đã cắm một cây nêu cao ngất, từ hôm 27-28 đã nghe tiếng pháo nổ giòn, khiến cho quang cảnh bến đò trở nên tưng bừng náo nhiệt khác hẳn cái tết mọi năm. Nên lúc bấy giờ người ta đã gọi nó là một cái tết nổi của phố Hiến, mà trong đám tết nổi đó thì người đáng kể nhất là cái tánh cầu kỳ của ông chủ thuyền mành nọ.

Văn hóa Việt Nam:
Lễ Tiến Xuân – Nghênh Xuân dưới triều Nguyễn
Các nghi lễ hoàng gia của triều đình nhà Nguyễn
Quan niệm Vũ Trụ – Âm Dương của Á Đông

Bởi vì năm ấy hàng bán hết, thu được lợi nhiều, ông định ăn tết lớn hơn chúng bạn hàng mành, các món nhai vị đã mua ở trên Hà-Nội cả rồi, nay phải đỗ lại Hưng-Yên thì ngày 28 gặp phiên chợ tết, ông lại lên phố xem có thứ gì hay hay. Sau khi dạo khắp phố phường, nhận thấy nhà nào cũng dán câu-đối đỏ rực. Nghĩ mình dẫu theo nghề nghiệp thương mại, nhưng mà cùng mạch thư-hương, nay gặp tiết xuân, lẽ nào chẳng có lấy dăm ba chữ…

Nghĩ thế ông bèn rẽ sang chỗ viết câu đối bán tết, thấy mấy ông đồ đương lúi húi viết ; Chữ hán thì câu “Niên nhiên tăng phú quí”, đối với “Nhật nhật hưởng vinh hoa”. Chữ nôm thì câu “Oanh ca yến múa mừng Xuân trẻ”, đối với “Nước thịnh dân giàu hưởng phước chung”. Đại để câu nào cũng tả màu xuân sặc sỡ, không hợp tình cảnh cái tết tha nhang của mình.

Riêng có một câu “Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng”, đối với “Xuân mãn càn khôn phước mãn”. Câu này sự thực nó là câu cũ, nhưng sao mỗi vế lại cắt cụt đi một chữ dưới đuôi (câu trên cắt mất một chứ Thọ, câu dưới cắt mất chữ Đường)? Thấy khách chú ý câu đó, ông đồ mỉm cười một cách hóm hỉnh cho biết: chính câu đối này nó đã đưa ông đến trước tụng-đình xuýt nữa bị nguy.

Nguyên sáng hôm qua có một thiếu phụ góa chồng giàu có vào hạng thứ nhất thứ nhì trong hạt, đến mua câu đối dán tết. Tôi bèn dùng ngay câu cũ, rồi theo cách thức của Yên-Sơn Ngoại-Sử thường cắt bớt đi chữ cuối để cho câu văn được kêu và thêm già dặn.

Chẳng ngờ khi bà đem về treo ở ngoài cửa thì có kẻ nào độc miệng cắt nghĩa xuyên tạc ta rằng: Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng 天增歲月人增: Trời tăng năm tháng người thêm ; Xuân mãn càn khôn phúc mãn 春滿乾坤福滿: Xuân khắp non sông bụng phổng. Đó chữ phúc nghĩa là phúc lộc mà họ xuyên tạc ngay ra chữ phúc là bụng phổng tức là có bầu, chửa hoang, rồi họ buộc cho nhà nho đã nói xúc phạm đến phần tiết trinh của người quả phụ, khiến cho bà ấy nổi trận Tam-Bành, mượn họ làm đơn đi kiện. May nhờ quan Án tức là quan Nghè Chu-mạnh-Trinh rất mực công bằng, quở trách bà ấy không được nghe xằng kiện bậy, và bắt bà ấy bồi thường danh dự cho nhà nho I quan tiền kẽm đây này.

Ông đồ kể qua câu chuyện rồi mời chủ thuyền mua giúp vài câu. Nhưng ông chủ thuyền không thấy câu nào hợp với tình cảnh của mình nên vẫn do dự. Ông đồ thấy thế bèn giới thiệu ngay: Ví bằng hoa-ông muốn có văn hay thì phải vào nơi quan Nghè ; còn chúng tôi viết văn bán chợ chỉ có thế thôi. Nhưng ông nên nhớ: Văn chương quan Nghè mỗi chữ giá đáng ngàn vàng, chứ không rẻ rúng như văn của chúng tôi đâu nhé.

Chủ thuyền thấy ông đồ giới thiệu như vậy lập tức về lấy 5 lạng bạc với 4 bao trà thượng hảo kèm theo một đôi liễn tàu, đưa vào trong dinh quan Nghè để xin câu-đối.

Học tiếng Anh:
Good và nice, hai tính từ có rất nhiều cách dùng
Tiếng Anh formal (trang trọng) và informal (bình dân) là thế nào?
Phân biệt thì quá khứ đơn và hiện tại hoàn thành

Hỏi qua lai lịch và ý muốn xong, Ngài gọi quân hầu đem bút mực ra, rồi Ngài viết ngay một vế. Vừa viết đến chữ cuối cùng của vế trên thì lính hầu vô bẩm: Cụ cử ở bên Phủ-Lý sang chơi. Ngài vội đặt bút xuống bàn thì cụ đã vào tới nơi chào hỏi: Ồ! quan bác cũng chơi câu đối tết đó sao? Ngài đáp: Không, chúng mình còn chơi chữ với ai mà tết với nhất. Câu này đệ viết cho bác lái mành Nghệ đương ngồi chờ kia…

Cụ cử ngâm đi ngâm lại vế trên không ngớt khen hay và giục: Vậy bác viết nốt vế dưới xem nào? Vế trên bác đã tập cổ để nói về cảnh, tất nhiên vế dưới cũng phải tập cổ để nói về tình. Tìm được câu nào khả dĩ cân đối được với câu trên tưởng cũng khó lắm! Âu là bác để phần tôi…

Cụ Nghè vội vàng gạt đi mà rằng: Vế dưới đệ cũng tìm được chữ đối xong rồi, khoái lắm! khoái lắm! Vậy xin bác đừng đọc vội. Chúng ta hãy theo như cách Khổng Minh và Chu Công Cẩn ngày trước, mỗi người đều ra một chỗ, để viết câu mình dự nghĩ vào trong bàn tay, thử xem văn tài của bác và tôi có giống nhau chăng.

Quả nhiên, sau khi viết xong cùng quay lại chỗ cũ, cùng xòe bàn tay ra coi, thì hai câu viết trong hai bàn tay không sai một chữ nào cả! Hai cụ vỗ tay cả cười, rồi đem viết ngay vào liễn. Câu đối ấy như sau[1]:

望春春可憐[2]嶺樹嶺重遮千里目[3]
Vọng xuân xuân khả liên, lĩnh thụ trùng dà thiên lý mục.

欲歸歸未得[4]孤舟一繫故園心[5]
Dục qui qui vị đắc, cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Nghĩa là:

Trông xuân xuân đáng thương, cây núi ngăn đôi nghìn dặm mắt.

Muốn về về chửa được, con thuyền buộc một mối tình nhà.

Về phần ông chủ mành Nghệ, ngồi nghe các cụ đàm đạo văn chương. Nhất là lại được mục kích một lối chơi chữ bằng cách hợp-chưởng (合掌: hợp bàn tay) như Khổng-Minh và Chu-Du đã thử nhau bằng một chữ hỏa (: hỏa công) ở trong bàn tay, thì ông lấy làm một sự hi hữu (ít có) trong đời. Nhân vì năm ấy được đại phát tài, nên phần hào hứng cao đến tột độ: Ông lại móc túi lấy ra 4 lạng bạc nữa để xin 4 chữ viết vào hoành-phi treo giữa, còn hai vế đối thì treo hai bên. Hai cụ liền cho 4 chữ: Xuân-Lai Giang-Thượng 春來江上: Xuân tới trên sông. Câu này nguyên văn trong Đường-thi là: “Xuân-lai giang-thượng kỷ nhân hoàn”: Xuân tới trên sông đã mấy người trở về? Chủ thuyền mành thấy hợp với tình cảnh của mình, lấy làm khoái trí, bái lãnh đem về. Thế là nguyên khoản câu đối đỏ, ông đã tiêu mất 9 lạng bạc, với 4 bao trà. Thời ấy khen ông là người đã biết chơi chữ lại biết tiêu tiền, thực hiếm có vậy.

Chủ mành bái lãnh câu đối trở ra ngoài rồi, hai cụ lui vào nhà trong đã thấy mâm rượu dọn sẵn, trong khi chén thù chén tạc, cụ Nghè nhắc lại: Lão chủ thuyền kia thực cũng có duyên văn tự, nên mới gặp dịp bác sang, cả hai chúng mình cho hắn đôi câu đối ấy, quả thực tuyệt diệu ; nhất là 4 chữ Xuân-lai giang-thượng: Xuân tới trên sông, khác nào mình đã đem cả mùa xuân đổ vào khoang thuyền của hắn. Xem ra hắn cũng là tay biết thưởng hương vị trong đám con thuyền Nghệ-An, nên đã tỏ vẻ hớn hở vui mừng như kẻ bắt được ngọc báu.

Biết đâu những áng kỳ văn kỳ bút, nó chả là điềm báo trước sang xuân hắn chả phát tài gấp I0 gấp I00?

Giả thử ngay lúc bấy giờ mình bảo hắn phải tạ thêm mấy lượng chắc rằng hắn cũng xin vâng.

Vậy nay nhờ trời đệ đã có sẵn thiên quan thiên lộc thì món nhuận bút 9 lượng bạc kia, đệ xin kính biếu đại-huynh để sang năm mới làm vốn “quân-tử chi-du” (có câu Hà-sào quân-tử chi du 蝦巢君子之遊: Tổ-tôm là món chơi của người quân-tử). Đó là bất phí chi huệ (不費之惠: làm ơn huệ mà không tốn của mình), xin bác vui lòng…

Cụ cử mỉm cười đáp: Trên đã ban huệ, kẻ dưới đâu dám chối từ… Sự thực thì số nhuận bút ấy đâu phải là nhỏ ; đối với vốn tổ-tôm còm của nhà nho, thì cứ đánh rền đến hàng chục năm cũng chưa hết vậy.

Nói tóm lại: Nhai thoại về câu đối đỏ trên đây, từ ấy đến nay thường thấy truyền ngôn: câu trên là của cụ Chu-Mạnh-Trinh, còn câu dưới là của cụ Cử bên Phủ-Lý hay là của một ông đồ nào đó. Nay nhân có người đã được mục kích kể lại như thế, thì câu vế dưới là câu của cả hai cụ. Chứ cụ Nghè Chu là người đã chiếm giải nhất về bài phú và 20 bài thơ vịnh truyện Kiều, thì cụ có nghèo chữ đâu mà phải vay mượn?


[1] Vì câu đối ấy toàn là những câu ở trong Đường-thi. Vậy dưới đây chúng tôi xin chú giải về độc giả thấy rõ văn tài và sức học của các Cụ như thế nào.

[2] Tô-Đĩnh 蘇頲 đời nhà Đường, trong bài Vọng-Xuân có câu : Đông vọng vọng xuân xuân khả liên, Cánh phùng tình nhật liễu hàm yên 東望望春春可憐,更逢晴日柳含煙 : Trông về phương đông thấy đền Vọng-Xuân đáng thương cho xuân ; Lại gặp buổi tạnh nắng, bờ liễu nhả khói lờ mờ.

[3] Liễu Tôn-Nguyên 柳宗元 đời Đường khi trèo lên thành Liễu-Châu có cảm tác bài thơ gửi cho bạn, câu thứ 5 và thứ 6 : Lĩnh thụ trùng dà thiên lý mục, Giang lưu khúc tự cửu hồi trường 嶺樹重遮千里目,江流曲似九迴腸 ; Cây núi ngăn đôi ngàn dặm mắt, Ruột tầm uốn khúc 9 giòng sông.

[4] Trương-Bật 張泌 đời Đường, gặp tết Hàn-thực nhớ nhà cảm tác bài thơ tứ tuyệt, 2 câu kết là : Đẳng thị hữu gia qui vị đắc, Đỗ quyên hưu hương nhĩ biên đề 等是有家歸未得, 杜鵑休向耳邊啼. Chẳng khác có nhà về chửa được, Đỗ-quyên (chim cuốc) đừng khoắc khoải bên tai.

[5] Bài thơ Thu Hứng của Đỗ-Phủ 杜甫 câu 5-6 : Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm 叢菊兩開他日淚,孤舟一系故園心 : Khóm cúc tuôn hai hàng lệ cũ ; Con thuyền buộc một mối tình nhà.

5/5 - (2 votes)
CHIA SẺ

Về Chuyên trang Văn hóa Việt Nam

Bài viết trong chuyên trang này được sưu tầm từ các nguồn uy tín và hay để chia sẻ với mọi người, vì văn hóa Việt Nam là chủ đề mà ad rất yêu thích.

Hy vọng chuyên trang cung cấp cho các bạn những thông tin hữu ích.

SÁCH MỚI CẬP NHẬT

Bài viết có hữu ích cho bạn?

Support trang bằng cách kích quảng cáo bên dưới. Mỗi lượt kích Lightway nhận được 300đ

Trang bạn đang xem có đặt quảng cáo của Google. Ủng hộ ad vài giọt cà phê bằng cách kích vào quảng cáo bất kỳ nhé!